Sunday, November 2, 2008

"Truất Phế Bảo Đại và Khai Sinh Đệ Nhất Cộng Hòa

ÔNG LÂM LỄ TRINH

VÀ BÀI "TRUẤT PHẾ BẢO ĐẠI"

"Truất Phế Bảo Đại và Khai Sinh Đệ Nhất Cộng Hòa

Ký Ức 50 Năm Sau"



Lâm Lễ Trinh



Ông Lâm Lễ Trinh đã viết một bài rất có giá-trị, nhưng trong đó có một số sai-lầm, tôi xin đề-nghị sửa lại như sau:


Ông viết:

“Đến nay một số sử liệu giải mật ngoại quốc và nhiều hồi ký cuả tác giả Việt có đề cập đến hai ngày trọng đại trong lịch sử Đất nước chúng ta: ... Trong vị thế Thứ trường rồi Bộ trưởng Nội vụ trong Nội các Ngô Đình Diệm từ 1955 cho đến cuối 1959, người viết đã chứng kiến và tham gia trực tiếp vào bi kịch trên đây. Mong bài này giúp độc giả biết thêm một số dữ kiện chưa hề tiết lộ...

Nhựt hoàng đầu hàng vô điều kiện ngày 15.8.1945, thủ tướng Trần Trọng Kim từ chức. Hai hôm sau, ngày 17 tháng 8, Việt Minh (tức Mặt trận VN Độc lập Đồng Minh) biến cuộc biểu tình lối 20.000 người được Tổng hội công chức phát động trước Nhà Hát Lớn Hànội để ủng hộ Chính phủ Trần Trọng Kim thành một cuộc tuần hành đòi Độc lập...”

Ý-Kiến: “Việt Minh” là 2 chữ viết tắt của “Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội”, trong lúc “Việt Quốc” là “Việt Nam Quốc Dân Đảng”, “Việt Cách” là “Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội”, “Việt Phục” là “Việt Nam Phục Quốc Hội”, “Việt Kiến” là “Việt Nam Kiến Quốc Đồng Minh Hội”, v.v...

“Hội” vào thời đó là một đảng bí-mật, Pháp thực-dân gọi là “hội kín” (tham-gia “hội kín” tức là tham-gia đảng bí-mật chống đế-quốc Pháp).

Về sau, Việt Minh dùng thêm 2 chữ “Mặt Trận” để thành “Mặt Trận Việt Minh” tức là ra công-khai rồi.

Vậy thì, để dùng cho đúng danh-xưng, chỉ có “Mặt Trận Việt Minh” và trước đó là “Việt Minh” tức tên gọi tắt của “Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội”, chứ không có “Việt Minh tức Mặt Trận VN Độc Lập Đồng Minh”.



Ông Lâm Lễ Trinh viết:

“... Ngày 19 tháng 8, Việt Minh cướp chính quyền trong một cuộc binh biến mà chúng huênh hoang gọi là cuộc Cách Mạng Tháng Tám hay Tổng Khởi Nghĩa...”

Ý-Kiến: Ngày 19 tháng 8 năm 1945 là ở Hà Nội và vài nơi khác. Theo hồi-ký của Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp thì có nhiều nơi “tổng khởi nghĩa” sau ngày 19-8-1945, trong lúc lại có những nơi trước cả ngày ấy. Việt Cộng chọn ngày 19-8-1945 làm ngày chính-thức “cướp chính quyền” để giành công-trạng cho các cán-bộ cấp trung-ương. Chỉ có dăm vụ sử-dụng vũ-khí (mà vì lực-lượng thuộc Chính-Phủ Trần Trọng Kim chống lại) rời-rạc ở một số nơi, còn thì trên bình-diện toàn-quốc không có cái gọi là “binh biến” đúng nghĩa.



Ông viết:

“... Sáng 25 tháng 8, Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận xuất hiện, tuyên bố đại diện chủ tịch Hồ Chí Minh, để nhận ấn kiếm do Bảo Đại trao lại tại Điện Kiến Trung, sau khi nhà vua tuyên bố vắn tắt "Dân vi quý. Trẫm thà làm dân một nước độc lập hơn làm vua một xứ nô lệ" trước một đám đông quần chúng "bỡ ngỡ, kinh ngạc, như bị sét đánh" (Bảo Đại viết)...”

Ý-Kiến: Cựu-Hoàng Bảo Đại viết sai . Ông ấy ở trong hoàng-cung, không biết gì về bên ngoài . Ông ấy bị Chánh Văn Phòng của mình là Phạm Khắc Hòe lừa bịp và giựt dây, vì gã ta đã được Việt Minh móc nối từ trước (sau này Phạm Khắc Hòe ở Việt Nam đã viết hồi-ký thú-nhận điều đó).

Tôi có tham-dự cuộc mít-tinh trước Cửa Ngọ-Môn để chứng-kiến lễ thoái-vị của Hoàng-Đế Bảo Đại và trao ấn kiếm tượng-trưng vương-quyền cho đại-diện Việt Minh.

Dân-chúng ở kinh-đô Huế và tỉnh Thừa Thiên đã được Việt Minh công-khai tuyên-truyền và huy-động ít nhất là một ngày về trước. Trong số đông người tham-dự mít-tinh, tuy có nhiều người xúc-động trước cảnh “đổi đời” nhưng ai cũng đã biết trước nên nói chung thì ngậm-ngùi cho chuyện hưng-phế chứ không có chuyện “bỡ ngỡ, kinh ngạc, như bị sét đánh”.

Cước-chú: Về ngày “chuyển giao quyền hành” này, ở đây ghi là 25-8-1945, nhưng trong cuốn “Việt Nam, Cuộc Chiến Tranh Quốc Gia – Cộng Sản...” của Nhóm Nghiên Cứu Lịch Sử Việt Nam Cận và Hiện Đại, Santa Clara, CA, USA, 2002, trang xiii, các soạn-giả viết: “Ngày 30 tháng 8 năm 1945, Hoàng Đế Bảo Đại chính thức tuyên bố thoái vị và trao ấn kiếm tượng trưng quyền lực cho đại diện Chính phủ Lâm thời của Việt Minh”; và trong cuốn “Hai Mươi Năm Qua, Việc từng ngày – 1945-1964” của Đoàn Thêm, Xuân Thu, Los Alamitos, CA, USA, trang 12, tác giả viết: “24-8-1945.- Lễ thoái vị trước Cửa Ngọ Môn, Huế; Vua Bảo Đại trao kiếm vàng cùng ấn ngọc cho đại diện Việt Minh...”

Trong sổ tay riêng của tôi, còn có thêm các ngày 23 và 26 nữa (!). Tôi chưa nghiên-cứu kỹ điểm này nên chưa thể tin vào tài-liệu nào.



Ông viết:
"3- Đa số lãnh tụ các đảng chống Cộng nhận định về sau: Ngày 19.9.1945, Việt Minh không mạnh như người ta tưởng...”

Ý-Kiến: Phải chăng là ngày 19.8.1945 bị đánh máy lộn?



Ông Trinh viết:

“... một Hội nghị các Chính đảng và Nhân sĩ Quốc gia sẽ được triệu tập ngày 29.4.1955 tại Dinh Độc Lập để cho biết ý kiến "Thủ tướng có bổn phận thi hành lệnh triệu thỉnh của Quốc trưởng hay không?" Hội nghị này gồm có 18 chính đảng/đoàn thể và 29 nhân sĩ Miền Nam. Đặc biệt, ba tổ chức nổi bật vì có thực lực: VN Dân Xã Đảng (Hoà Hảo) mà bí thơ là Nguyễn Bảo Toàn, VN Phục Quốc Hội (Cao Đài) do Hồ Hán Sơn thay mặt và Mặt trận Quốc gia Kháng chiến VN của Trình Minh Thế, do Nhị Lang đại diện.
... Hội nghị bầu Nguyễn Bảo Toàn vào ghế chủ tọa, Phạm Việt Tuyền vào ghế Tổng thư ký. Như đã thoả thuận với nhau từ trước, Nhị Lang, NBToàn và HHSơn khai pháo bằng cách đặt thẳng với Hội nghị một vấn đề duy nhất: truất phế Bảo Đại, khỏi bàn đến chuyện gì khác... Hội nghị bầu ra một Ủy ban cách Mạng, sau đổi là Hội đồng Nhân Dân Cách mạng, rồi Hội đồng Nhân dân Cách mạng Quốc gia, thể theo ý kiến của một số nhân vật "ôn hoà”... Hội đồng này gồm có Nguyễn Bảo Toàn (chủ tịch), Hồ Hán Sơn (Phó chủ tịch), Nhị Lang (Tổng thư ký) và một số ủy viên như Hoàng Cơ Thụy, Trần Thanh Hiệp, Đoàn Trung Còn, Hoàng Phố, Văn Ngọc, bà Đức Thọ, Hùynh Minh Ý, Hà Huy Liêm và Nguyễn Hữu Khai. Cuối cùng, Hội nghị đưa ra một bản Quyết nghị nảy lửa, gồm ba điểm: Truất phế Bảo Đại, giải tán Chính phủ Diệm và ủy nhiệm chí sĩ N Đ Diệm thành lập Chính phủ Cách Mạng Lâm thời, tổ chức tổng tuyển cử, tiến tới chế độ cộng hoà...

Chuyện gì đã xảy ra cho các lãnh tụ cốt cán trong Hội Đồng Cách Mạng và Ủy ban Chỉ Đạo?
1. Chủ tịch Nguyễn Bảo Toàn, đứng đầu Lực lượng Hoà Hảo (tổ chức đông và mạnh nhất năm 1955), từ chức, trốn qua Phi Luật Tân, rồi bị thủ tiêu khi trở lại VN... Ông là sáng lập viên Mặt trận Thống nhất Quốc gia với Nguyễn Hải Thần và Nguyễn Tường Tam. Cựu đại tá Nguyễn Văn Y, nguyên cục trưởng Trung ương Tình báo và TGĐ Công an thời Diệm, hiện ở Virginia, quả quyết với người viết rằng Hội đồng Quân nhân năm 1963 vu oan ông đã giết N B Toàn. Theo ông, công tác này có thể do nhóm Lê Quang Tung hay Dương Văn Hiếu thi hành theo lệnh của Ngô Đình Nhu.
2- Hồ Hán Sơn... Sau biến cố tháng 4.1955, Sơn thất sủng, rồi bị Nguyễn Thành Phương (lúc đó xoay qua chống N Đ Diệm) đưa ra xử tại một phiên họp cao cấp Cao Đài tại số 195 đường Công lý Sàigòn, chỉ vì Sơn đi dùng cơm với Bộ trưởng Trần Chánh Thành, hành động coi như "đào ngũ, tư thông với địch". Ở tù tại Bến Kéo, Tây Ninh, Hồ Hán Sơn bị trung úy N.N.V, bí thơ của tướng Phương, hạ sát, ném thây xuống giếng.

3- Nhị Lang, xin tị nạn tại Nam Vang cuối 1955 và chỉ trở lại VN sau vụ đảo chính 1963. Trả lời người viết, Nhị Lang cho biết lý do phải trốn qua Cam-bốt là để tránh sự đàn áp từ một số cơ quan chính quyền... Một điều khó hiểu là Nhị Lang luôn luôn ca tụng TT Diệm và Cố vấn Nhu. Cho đến ngày ông qua đời năm ngoái ở tiểu bang Colorado.
4- Nguyễn Thành Phương, Tổng tư lệnh Cao Đài Tây Ninh, lãnh tụ Việt Nam Phục quốc Hội, được TT Diệm vinh thăng Trung tướng... Phương ra ứng cử Phó Tổng thống, chung liên danh với Nguyễn Đình Quát chống lại Ngô Đình Diệm. Ngày 31.3.1955, khi được biết Đức Hộ pháp Phạm Công Tắc định thay thế ông trong vai trò quân sự cao nhất trong Đạo, ông quyết định ra tay trước bằng cách "quốc gia hoá" toàn bộ Quân đội Cao Đài, giao cho Chính phủ...

Với cuộc trưng cầu dân ý ngày 26.10.1955, Thủ tướng Diệm trở thành Tổng thống. Chính quyền hạ ngón độc thủ, cho mở ngày 15.2.1956 Chiến dịch Bình định Miền Đông do tướng Văn Thành Cao - đối thủ của Phương - phụ trách, với Bộ chỉ huy đặt ở Toà thánh Tây Ninh. Nguyễn Thành Phương hoàn toàn thất sủng, bị lấy lại công thự số 195 Công Lý. Cuộc đời chính trị cuả y chấm dứt thê thảm. Trong cảnh túng thiếu, nghèo nàn.
5- Trình Minh Thế là một anh hùng yểu số. Đêm 6.6.1951, đại tá Tham mưu trưởng Cao Đài Trình Minh Thế bất thần "thoát ly" với một số chiến sĩ vào rừng Bưng Rồ, Tây Ninh, để lập chiến khu "chống cộng, đả thực và bài phong". Đường lối này thích hợp với chủ trương của TT Diệm...

Sau nhiều lần viếng thăm chiến khu Liên Minh, Lansdale móc nối cho cố vấn Ngô Đình Nhu tiếp xúc thẳng với Thế. Hoa kỳ đầu tư chính trị vào Liên Minh.
Ngày 31.1.1955, Thủ tướng Diệm đích thân đến Lò Gò, Tây Ninh, gần căn cứ Bầu Gõ của Liên Minh, mời Thế về hợp tác theo những điều kiện thỏa thuận giữa Nhu và Thế. Ngày 13.2.1955, một buổi lễ long trọng được tổ chức tại đại lộ Nguyễn Huệ Sàigon, trước sự hiện diện của đầy đủ ngoại giao đoàn, để trên 8.000 quân Liên Minh gia nhập Quân đội Quốc gia. Thế nhận từ tay Thủ tướng mũ nón và ngôi sao Thiếu tướng... Cũng trong thời gian này, Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia (gồm có Cao Đài, Hoà Hảo, Bình Xuyên, Liên Minh và Dân Xã của tướng Lê Quang Vinh) ký chung một bản tuyên ngôn đoàn kết và cử phái đoàn trao cho Thủ tướng Diệm một tối hậu thư buộc phải cải tổ ngày 2 tháng 5 là thời hạn chót. Được Mỹ ủng hộ âm thầm, ông Diệm từ chối. Để cứu Chính phủ, tướng Thế họp báo tuyên bố Liên Minh rút khỏi Mặt trận... Ngày 3.5.1955, bất ngờ Thủ tướng Diệm cử Thế tấn công Bình Xuyên... Phải chăng để thử lòng? Một thâm mưu? Tướng Thế nhận sự bổ nhiệm đầu tiên này.
Theo Nhị Lang kể lại: Đúng 7 giờ chiều ngày 3 tháng 5, Thế mất trong lúc ông đích thân đứng trên chiếc quân xa đi đầu để chỉ huy lính Liên Minh tiến qua cầu Tân Thuận, phiá Nam Sàigòn. Một viên đạn carbine duy nhất bắn rất gần vào lỗ tai bên phải xuyên qua mắt trái. Thế chết tức tốc. Người bắn viên đạn núp dưới chân cầu không thể cách xa mục tiêu hơn 10 thước... Chính phủ vinh thăng T M Thế lên trung tướng và tổ chức lễ quốc táng ngày 6 tháng 5...

Về cái chết của tướng Thế, có nhiều giả thuyết: Sau 1975, cựu trùm Đệ nhị phòng Savani viết một bài thú nhận đã chủ mưu giết Thế để trả thù các tội ác chống Pháp. Nhị Lang, trong Hồi ký, thì quy trách cho Mai Hữu Xuân và cực lực phản bác tin đồn vô căn cứ là do lệnh của ông Nhu, để trừ hậu hoạn. Trong nhiều đọan của hồi ký, trang 395 và tiếp theo, Nhị Lang than phiền Văn Thành Cao bỏ rơi Liên Minh để thụ hưởng, khiến cho một số sĩ quan của Thế trở vào bưng biền đầu tháng 9.1955 vì cho rằng chính quyền Diệm không thi hành các cam kết ngày 31.1.1955 tại Lò Gò. Có lẽ vì sự bất mãn đó, họ phao đồn Cao có liên hệ đến vụ bắn Thế...

Năm 1999, qua sự giới thiệu của cựu đại tá Cao Đài Đặng Quang Dương, hiện ở Dallas, nay trên 90 tuổi, cấp chỉ huy cũ của Thế và Cao, người viết gặp tại Orange County bà quả phụ Trình Minh Thế nhủ danh Nguyễn Thị Kim (hiện ở Calgary, Canada) và đặt câu hỏi. Bà Thế không đồng ý với Nhị Lang và có vẻ ấm ức nhiều chuyện. Cái chết của tướng Thế còn có ẩn khúc...

“... Với cuộc trưng cầu dân ý ngày 26.10.1955, Thủ tướng Diệm trở thành Tổng thống. Chính quyền hạ ngón độc thủ, cho mở ngày 15.2.1956 Chiến dịch Bình định Miền Đông do tướng Văn Thành Cao - đối thủ của Phương - phụ trách, với Bộ chỉ huy đặt ở Toà thánh Tây Ninh. Nguyễn Thành Phương hoàn toàn thất sủng, bị lấy lại công thự số 195 Công Lý. Cuộc đời chính trị cuả y chấm dứt thê thảm. Trong cảnh túng thiếu, nghèo nàn...”

Ý-Kiến: Cuộc “trưng cầu dân ý” được tổ-chức vào ngày 23.10.1955, không phải 26.10.1955. Tôi đã tham-gia tích-cực vào việc tổ-chức và điều-hành công-tác “trưng cầu dân ý” ấy tại Huế.



Ông Lâm Lễ Trinh viết:

“Cuộc trưng cầu dân ý ngày 26.10.1955
Quyết nghị ngày 29.4.1955 của Hội đồng Nhân Dân Cách Mạng khiến Thủ tướng Diệm không thể tránh tổ chức Trưng cầu Dân ý, dù muốn hay không. Trong thâm tâm, là một quan lại của Triều đình, ông Diệm bảo hoàng và rất lo ngại phạm tội khi quân (crime de lèse majesté)...”

Ý-Kiến: Ngày 26.10.1955 là ngày tuyên bố Hiến Ước Tạm Thời tại Dinh Độc Lập, theo đó Việt Nam là một nước Cộng Hòa, Quốc Trưởng lấy danh hiệu là Tổng Thống. Còn ngày “trưng cầu dân ý” là ngày 23.10.1955.

Cước-chú: Chữ Pháp “lèse majesté” quên thêm dấu nối ở giữa (lèse-majesté).


Ông Trinh viết:

“... Lịch sử cũng không thể quên cố vấn Ngô Đình Nhu là một nhà mưu lược thượng thặng, trong cả hai nghĩa tốt và không tốt...

... Cựu chủ tịch Quốc Hội Trương Vĩnh Lễ nhận xét nơi trang 30 của hồi ký "VN, Où est la Vérité?" (nxb Lavauzelle, Paris 1989): Trên phiếu, dân chúng có thể chọn trả lời một trong hai câu hỏi: 1) tôi truất phế Bảo Đại và chọn N Đ Diệm như Tổng thống VN với sứ mạng lập một thể chế cộng hoà hay 2) tôi không truất phế bảo Đại và không công nhận N Đ Diệm như Tổng thống để thành lập thể chế cộng hoà. Kết quả: ông Diệm thắng 98.2%. Tỷ lệ này có vẻ không hoàn toàn trung thực, dù quần chúng mến mộ nhiệt tình ông Diệm lúc đó...”

(Xin xem chú thích ở cuối bài).



Ông viết:

"Bầu Quốc hội Lập hiến (tháng 3.1956) và ban hành Hiến pháp Đệ nhất Cộng hoà (ngày 26.10.1956)...
Quốc hội chấp thuận. Việt Nam là một nước Cộng Hoà theo thể chế độc viện, có một Tổng thống và Phó Tổng thống cử theo lối phổ thông đầu phiếu... Không có điều khoản nào cho phép truất phế, impeach, khi Tổng thống phạm trọng tội...

Uy quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm mỗi ngày thêm vững, ít nữa cho đến cuối 1960. Ngày 20.7.1955, Chính phủ Diệm tuyên bố không chấp nhận chuẩn bị tổng tuyển cử qui định bởi Hiệp ước Genève. Với sự cộng tác của Bộ Nội vụ do người viết phụ trách, Hội đồng Nhân Dân Cách mạng tổ chức một cuộc biểu tình vĩ đại để đuổi về Bắc phái đoàn Văn Tiến Dũng trong Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến (gồm có Ba Lan và Ấn độ).”

Ý-Kiến:

1/ (Ngày 20.7) năm 1955, Tổng-Trưởng Bộ Nội Vụ là ông Bùi Văn Thinh (từ 10-5-1955), sau đó là ông Nguyễn Hữu Châu; mãi đến năm 1958 (ông Châu từ-chức) ông Lâm Lễ Trinh mới được cử làm Bộ-Trưởng Nội-Vụ (cho đến tháng 10-1960).

2/ Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến (ICC) gồm có Ấn Độ, Ba Lan và Gia Nã Đại (3 thành viên, chứ không phải 2, và do Ấn Độ làm Chủ Tịch vì Ấn Độ được xem là nước “trung lập”).



Ông viết:

“Văn phòng đại diện CS đặt tại khách sạn Majestic, Bến Bạch Đằng. Majestic bị phóng hoả, gây thiệt hại trên 5 triệu bạc, cũng như một khách sạn khác mang tên Galliéni ở đường Trần Hưng Đạo. Văn Tiến Dũng và các đồng chí thoát thân về trại của chúng ở Gia Định, bên cạnh nhà thương Nguyễn Văn Học. Nhiều ngày liên tiếp, đồng bào di cư, sinh viên, học sinh cô lập họ bằng những lời chửi rủa thậm tệ. Điện, nước, lương thực bị cúp hoàn toàn. Cuối cùng Ủy Hội liên lạc với chính phủ xin bảo đảm cho phái đoàn Bắc Việt rời Sàigòn. Tổng Nha Cảnh sát/Công An cho những chiếc xe nhà binh bít bùng chở chúng lúc trời hừng sáng đến Tân Sơn Nhứt dưới sự đả đảo vang dậy của quần chúng. Tác giả bài này đích thân đến phi trường kiểm soát mọi thủ tục. Vào lúc máy bay Ủy hội sắp cất cánh, một sĩ quan CS hốc hác, đầu đội nón cối, không mang phù hiệu, bước đến chào người viết theo lối nhà binh, tự xưng là thiếu tá Văn Tiến Dũng. Y tỏ lời cám ơn giúp phái đòan ra đi trong trật tự...”

Ý-Kiến: Năm 1946, Văn Tiến Dũng làm Trưởng Ban Liên Lạc Việt-Pháp tại Huế, có nhiệm vụ cùng với đại diện quân đội Pháp giải quyết các vụ xung đột giữa đồng bào Việt Nam và lính Pháp. Tôi thấy Văn Tiến Dũng mang cấp hiệu đại tá.

Lục xem tài-liệu VC thì thấy, vào thời-gian tổ-chức “tẩy chay” phái-đoàn Bắc Việt và thời-gian ông Lâm Lễ Trinh làm Bộ-Trưởng Nội Vụ, Văn Tiến Dũng đã là thiếu tướng rồi (xem bản sao dưới đây).

Thứ tư, 20/3/2002, 08:02 (GMT+7)

“Đại tướng Văn Tiến Dũng từ trần

... Văn Tiến Dũng... đã từ trần hồi 17h30' ngày 17/3, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 (Hà Nội), thọ 85 tuổi.

Đại tướng Văn Tiến Dũng sinh ngày 2/5/1917 tại xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội và bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng... từ năm 1936...

Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1951) ông đã được cử giữ nhiều chức vụ chính trị và quân sự quan trọng từ chính ủy chiến khu, cục trưởng Cục chính trị (nay là Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam), đến tư lệnh quân khu và được phong hàm thiếu tướng năm 1948, thượng tướng năm 1959 và đại tướng năm 1974...” (Thông Tấn Xã Việt Nam).


Phải chăng người mà ông Lâm Lễ Trinh tưởng là Văn Tiến Dũng chính là Võ Đông Giang, cũng là Trưởng Phái Đoàn CS Bắc Việt tại Tân Sơn Nhất, Sài-Gòn, vào Tháng Tư năm 1975, lúc đó gã ta là một cán bộ cao cấp mà chỉ mang cấp hiệu quân sự trung tá mà thôi.



LÊ XUÂN NHUẬN
CHÚ-THÍCH:
*Nguyễn Đình Tuyến (“Những Biến Cố Lớn trong 30 Năm Chiến Tranh tại Việt Nam 1945-1975”, Đại Học Đông Nam, Houston, TX, USA, 1995, trang 39):

“Cuộc Trưng Cầu Dân Ý này là màn đạo diễn của Đại-tá Landsdale đã đóng vai trò quan trọng trong việc ủng hộ Thủ Tướng Diệm. Ở nhiều nơi trong thành-phố Saigon, số phiếu bầu cử cho ông Diệm bằng 130% con số cử tri (vì binh sĩ của Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Thủ Tướng và Đoàn Viên Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia của ông Diệm đã được phép bầu đi bầu lại nhiều lần).”

*Wikipedia, the free encyclopedia:

Ngo Dinh Diem
“on October 26, 1955, in a disputed nationwide referendum, the people voted to remove the emperor Bao Dai as head of state and elect Diem the first President of the Republic of Vietnam.

When the referendum was held, Diem's troops guarded the polls and those who attempted to vote for the Emperor were assaulted. Diem's detractors say that the fraud was obvious. In Saigon, for example, Diem claimed more votes than there were registered voters in the entire area.” (tạm dịch: số phiếu đã bầu mà Thủ Tướng Diệm công bố thì nhiều hơn tổng số cử tri đã ghi danh trong toàn khu vực).



*The National Archive – A Learning Curve:

http://www.learningcurve.gov.uk/

“When the voters arrived at the polling stations they found Diem's supporters in attendance.

After the election Diem informed his American advisers that he had achieved 98.2 per cent of the vote. They warned him that these figures would not be believed and suggested that he published a figure of around 70 per cent. Diem refused and as the Americans predicted, the election undermined his authority.”


Ông Lâm Lễ Trinh trả lời Lê Chân Nhân (tức Lê Xuân Nhuận):

From:
Lamletrinh@aol.com

Date:
Sat, 22 Oct 2005 18:01:40 EDT

Subject:
cam on ve nhung diem bo tuc cua ong

To:
lechannhan@yahoo.com

http://lexuannhuan.tripod.com/TrungCau.html

- http://ttntt.free.fr/archive/

- Quốc gia. Luật Việt Nam Cộng Hòa cũng. công nhận quyền tư hữu của người. dân . Điều 20 của Hiến Pháp ngày. 26.10.1956 quy định: “Quốc gia công ...
http://www.tonghoi.org/chinhviet/TuDoNL/TuDoNL44.pdf
www.tonghoi.org/chinhviet/TuDoNL/TuDoNL44.pdf
- Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM, Kẻ Sĩ Cuối Cùng, - VN Thu quan
http://vnthuquan.net/Truyen/truyentext.aspx?tid=2qtqv3m3237nmnnn3nvn31n343tq83a3q3m3237nvn
- http://aigietai.blogspot.com/2008/03/4-ti-phn-bi-t-quc-ca-ng-cng-sn-vit-nam.html
- http://lichsuviet.cjb.net/articles.asp?page=1&cat=6&month=&year=&keyword=&action=category
- Được sự đồng ý của LS Lâm Lễ Trinh, nguyên tổng trưởng Nội Vụ thời Đệ Nhất CHVN, hiện là chủ bút tạp chí Anh-Pháp Human Rights/Droits de l’Homme, ...

http://ttntt.free.fr/archive/Lamletrinhd.html
- Bầu Quốc hội Lập hiến (tháng 3.1956) và ban hành Hiến pháp Đệ nhất Cộng hoà ( ngày 26.10.1956). Quốc hội Lập hiến gồm có 134 dân biểu thuộc bốn đảng thân ...

- http://ttntt.free.fr/archive/lamletrinhe.html
- http://lthvsg.neuf.fr/NDD/NDDtuongniem.htm

No comments: