Friday, October 31, 2008

Quyển sách "Từ chế độ toàn trị sang thể chế dân chủ" của tác giả Gene Sharp



Quyển sách "Từ chế độ toàn trị sang thể chế dân chủ" của tác giả Gene Sharp

Trần Thị Hồng Sương: Mở nút thắt "quá khứ" để có thể bắt đầu hoà giải

Ngày: Chủ Nhật, 30 Tháng 12, 2007
Chủ đề: Nhân Bản - Nhân Quyền

Mở nút thắt "quá khứ" để có thể bắt đầu hoà giải
Trần Thị Hồng Sương

I- Một sự thật... khó đối diện

Khi không biết rõ mới tốt!

Rất nhiều người yêu nước và càng vô tư yêu nước thân thiện với chánh quyền CS khi... không biết nhiều về lịch sử VN, không biết ông Ké ông Hồ là ai. Tôi tin mình từng trong số đó, có lẻ ông Kỳ, ông Nguyễn thành Trung, Phạm xuân Ẩn cũng vậy...! Biết lịch sử nhiều hơn thì ít yêu, không tin CS!

Tôi từng làm được chuyện "hoà giải" là "nhẫn nhịn" sống với người suy nghĩ và làm hoàn toàn khác tôi giữa khi tôi vẫn tin tuyệt đối là... tôi đúng. Tôi tự an ủi cái nghèo là... tự nhiên sau chiến tranh, xây dựng tình cảm đời thường với đồng nghiệp thuộc... "kỳ (cục) hoa dị (hình) thảo" để bớt sự kỳ thị, nghĩ rằng chẳng qua do chưa biết nhau nhiều... Lật bật sống gần hết đời trong thiệt thòi giữa lòng đất nước VN đầy sự "lộn sòng". Dù sao cũng có thể giữ lòng trung thực không bị "hôi tanh mùi bùn" và tất nhiên không thể kính yêu những gì không có giá trị thật, cho dù có ai nói như "đọc kinh" bên tai!

Tôi khá hài lòng vì làm được nhiều việc giúp người bệnh.

Tôi đòi người CSVN hôm nay một khi "đúng sai chính tà" đã rõ nét phải biết sống và chấp nhận nhau như tôi để còn có thể hoà giải nối vòng tay lớn cho dân tộc VN.

CSVN coi tôi là dàn "ngoại vi" thân thiện, ăn theo "phước đức" cha ông từng là Việt Minh đánh Pháp, đâu có phải là cơ sở được thử thách qua thảm sát CCRĐ, có bàn tay chưa dính máu sao mà tin được, sao mà cần cho học hỏi gì thêm.

Đi hội thảo cùng trời cuối đất thì toàn do các bạn người nước ngoài "không CS" giúp nên không có gì phải "nhớ ơn đảng"!

Tôi thất thế vì sống trong nước có thể bị "treo mỏ, bỏ tù dạ dày" bất kỳ lúc nào như Phương Nam. VK có lợi thế hơn ví như Ông Trịnh Vĩnh Bình chắc cuối cùng thương lượng không mất mát bao nhiêu! Nhưng cuộc sống, việc va chạm cá nhân, là chuyện nhỏ đừng lập lại sai lầm của Ông Nguyễn Thành Trung giận cha mình bị bêu xác quá thương tâm mà thù ông Diệm theo phe khác không hề băn khoăn phe đó thế nào! Hay ông Phạm Xuân Ẩn dùng tài năng để... phản lại lòng tin của bạn bè... không biết "phe ta" dù là người VN cũng không đáng để theo về.

Bỏ qua chuyện vài nơi như Vĩnh Long, Việt Minh nghe theo CS lùng giết "Việt gian" chỉ là các thầy giáo, thôn ngôn, khiến cho nhiều VM phải liều chết làm trái lệnh để cứu Thầy cứu bạn, xét kỷ, chỉ có thời Việt Minh chống Pháp là có thể đoàn kết toàn dân. Cho nên CS hay không CS hôm nay nên cùng theo tinh thần "đa nguyên đa đảng" của VM để tiếp nối công việc thống nhất lòng dân... và phải quyết làm cho thành công.

Việc cụ Hoàng Minh Chính phục hoạt đảng Dân chủ XXI đáng ủng hộ lắm, nếu hiểu theo tinh thần này! Và tôi tin người VN chúng ta làm được nếu công tâm, công bình, trung thực, đừng có ai dùng việc này làm bàn đạp... danh phận. Bà Tôn Nữ thị Ninh nếu ép được VK tin phục CS, thành công hơn nhóm quý ông Bắc Kỳ ở sứ quán VN ở Mỹ thì chắc nay đã là... phó chủ tịch nước rồi!

Những ngày ở Mỹ, cộng lại khoảng chừng 5 tháng, tôi luôn nghĩ làm sao nối vòng tay lớn này. Thế hệ 1 đi ngay sau giải phóng, đi vượt biên hay đi đoàn tụ như anh em tôi, sẽ không làm được gì nhiều vì tất bật lo kinh tế gia đình, chỉ đủ sức hội nhập, lo học ngoại ngữ, đầu tư vào con cái và giúp gia đình ở VN thoát nghèo là đủ giỏi!

Ông Nguyễn tất Thành cũng chỉ tồn tại vất vả ở Pháp ở Anh, phải ủ ấm bằng viên gạch nung, che ngực bằng giấy báo, sao Viet Weekly chê cha chú HO dữ vậy? Thử chê ổng dùm chút coi!

Vậy nếu mỗi gia đình VK có thể giúp thêm cho một hai con cháu mình còn ở VN qua Mỹ học bổ túc trình độ là quá tốt và có tính khả thi. VK nên Lập hội như "World Vison, Tầm nhìn thế giới" và tham gia hội kiểu "US Committee for Scientific Cooporation with VN: Hội khoa học Mỹ hợp tác với VN" để giúp trí thức XHCN tự chỉnh đốn chuẩn hoá lại kiến thức qua sách vở và nâng cao tầm nhìn thế giới. Đó là ý kiến tôi mới góp cho... anh em trong gia đình tôi ở Mỹ.

Thế hệ 2 hoặc một rưởi có về cũng tốt nhưng phải đi theo các... công ty lớn của nước đinh cư. Thế hệ 3 mới có thể làm ăn độc lập và nhỏ ở VN khi luật pháp đã hoàn chỉnh. Thế hệ 4 mới có thể làm công ty VN lớn.

Tôi đang cảm thấy hụt hẫng và thương dân đồng bằng Cữu Long quá nghèo khó... phải làm sao đây? VN đang đặt bàn chân đến ngưỡng cửa thế giới Khoa học công nghệ, có rất nhiều điều cao quá xa tầm hiểu biết của tôi rồi! Rất cần có người VN ở nước ngoài nối vòng tay qua thế hệ sau này!

Xin đừng quá quan tâm đến đảng CSVN, 3 triệu đảng viên, ông Triết, ông Mạnh, ông Dũng... cũng có hạn kỳ ông lên bà xuống, không có giá trị bằng khối người 20 triệu dân đồng bằng đang cần sống đủ, cần học hành! Đấu tranh dân chủ với nhà nước CS, cùng là người VN, tôi chỉ ước chi là giống... dạy con em trong nhà, vừa thương vừa phải "rầy rà", ép đi học cái mới... cho hết dốt, bỏ khờ!

Không có gì đáng khen, đáng theo đâu nghe hông...Việt Weekly! Khen "bậy" là "phá" đó!

Người càng biết rõ thì càng sẽ không dễ hợp tác vì Ông Nguyễn tất Thành cùng đảng CS quả là đã mang đến nhiều tai họa cho đất nước. Ông Bảo Đại, Ông Nguyễn Hải Thần và nhiều trí thức có kiến thức chánh trị từng can dự, sớm thấy chân tướng nên đã bỏ đi... Người VN khác chỉ biết chuyên môn, đã bị nhà tình báo Liên Xô, sĩ quan VN dưới trướng của Mao trạch Đông, đội trưởng đội du kích Mỹ chống Nhật này dẫn dắt vào... chiến tranh và thảm sát.

Bề ngoài thân thiện, thái độ kềm chế, lời nói chọn lọc dễ gây cảm tình là kỷ năng tính báo để tiếp cận đối tượng... muốn tiêu diệt của ông Nguyễn tất Thành không phải là "lòng tốt, là yêu tổ quốc đồng bào", không phải là yếu tố đảm bảo cho các quyết định mang tính trí tuệ sẽ là đúng!

Những yếu tố đó không phải là "giá trị" mà chỉ là "lợi thế" phù hợp để đóng kịch trước công chúng. Ông chăm lo tự giới thiệu mình rất nhiều qua các đoạn phim: Chống gậy Trường Sơn hành quân (- Chắc là trong "An toàn khu" Việt Bắc!), đạp nước vào ruộng với lão nông (- Chưa một ngày làm ruộng!), yêu trẻ ôm hôn cháu bé khi con ông và cô Nông Thị Xuân chưa từng được gặp cha, được cha nhìn nhận, vậy mà tin được vào ông ư? (-Còn lâu!).

Ông còn phân thân đóng vai ký giả... viết về mình! Ông Lê Duẫn chê ông Nguyễn Tất Thành hay... trình diễn là quá đúng, đâu có nói xấu bác Hồ!

Có một chút triết lý ở đây và một sự thật quá khó cho người CSVN... đối diện: Con người quá đau khổ vì cuộc sống, cho nên cần có Chúa như một điểm tựa tinh thần.Vì vậy:

"Nếu Chúa không tồn tại thì cần phải sáng chế ra ông ta."
("Si Dieu n'existait pas, il faudrait l'inventer.") Voltaire

Cách mạng chống Pháp thời Việt Minh các phe nhóm chánh trị CS và không CS đều đồng lòng "đánh chung" dù sẽ "đi riêng". Thời ông Diệm, ông Nguyễn Tất Thành là người ít ai biết nhất, phù hợp nhất cho việc "sáng chế" một "chí sĩ " không vợ con, làm đối tác với "chí sĩ" thật là Ngô đình Diệm. Giống như trong phim, các tài tử vai "độc thân" được khán giả nữ thích mê thích mệt!


Để làm cho giống, phải giấu biệt chuyện bà Tăng Tuyết Minh, chuyện có con với Nông Thị Xuân. Có gì khó hiểu về kịch bản này. Người khác ở xa xa, ít can dự chánh trị như các ông bà trí thức Tây học một phần chịu ảnh hưởng chống Mỹ của Pháp, một phần chịu ảnh hưởng nhà triết học Jean Paul Sartre, mê "tự do tinh thần" thoát khỏi nô lệ của nhà thờ, trong điểm "Vô Thần" của học thuyết CS. Ông Nguyễn Mạnh Tường, Ông Nguyễn Khắc Viện, bà Dương thị Quỳnh Hoa... và hầu hết trong MTGPMN theo CS vì ảnh hưởng của ông Jean Paul Sartre. Pháp lòn vào các tổ chức này và bơm cho tinh thần chống Mỹ lên cao! Các ông bà "cuồng mộ" ông Nguyễn Tất Thành và đảng CS thì cũng giống như các thiếu niên là "fan" của các tài tử điện ảnh.

Cuộc chiến VN là một kịch bản hư cấu chỉ có... cái chết là thật.

Người nói dối dần dà tin vào lời nói dối của mình! Ông Nguyễn Tất Thành không cam lòng chịu làm "diễn viên". Khi ông dạt đám trí thức ra chỉ còn lại ông Phạm văn Đồng và Ông Võ nguyên Giáp, đặt cả hai ông vào mâu thuẩn ngờ vực với ông Lê Duẫn. Khi đã dàn dựng xong bên mình toàn bộ một dàn người kém hơn ông, khờ hơn ông về mọi mặt như ông Trường Chinh, Đỗ Mười, Hoàng Quốc Việt... ông nắm quyền lực thật qua CCRĐ, Nhân văn giai phẩm, xét lại chống đảng...Thảm sát bắt đầu.

Ông Lê Duẫn cả quyết hơn, không phục ông Nguyễn Tất Thành, cũng không theo Tàu cộng, thì ông Nguyễn Tất Thành đẩy ra xa, đi vào Nam gây chiến, cái chết cái sai thuộc về mọi người, cái lợi thuộc về ông Nguyễn Tất Thành.

Sau khi làm tình báo Liên Xô, sau khi theo Mao không chắc ông Nguyễn Tất Thành, còn yêu nước đất nước VN. Rõ là ông không còn thân Mỹ vì Mỹ từ chối không cho ông danh phận. Giận đất nước buộc ông sống cu ki lén lút. Ông quyết chết thì... đi theo Mao theo Lê Nin. Chắc giờ này hồn ông đang chơi vơi vì hai xếp bị hạ bệ "mất hồn" rồi! Có thể ông đi tìm Bà Tăng tuyết Minh nối lại tình xưa! Dứt khoát không còn dám ở VN vì gặp oan hồn CCRĐ và nhất là gặp lại nàng Nông thị Xuân thì... phải biết! Nói như đùa nhưng đó chính xác là nỗi ám ảnh của người gây nhiều nỗi oan khiên.

Nếu hỏi các ông khác của đảng CS có yêu nước không xin trả lời là -Có! Hỏi có biết cách yêu nước sao cho "ích nước lợi dân" không, câu trả lời là -Không!

Ông Nguyễn Tất Thành, là một nhà tổ chức chứ không cần đích thân làm chuyện cải cách, chiến tranh chất chóc. Tất cả có ông Trường Chinh-ông Lê Duẫn gánh thay!

Nghĩ gì đây, khi nhìn lá cờ Hồng Kông, Ma cao vẫn bay phất phới bên cạnh cờ Trung Quốc và người dân Trung Quốc đổ vào Hồng Kông như vùng đất hứa! Dù sao thì cờ vàng sọc đỏ cũng có an ủi lớn là được Mỹ công nhận là lá cờ tượng trưng cho "dân chủ tự do".

Nam Bắc Hàn hoặc là tồn tại phân rẽ, hai là theo Nam Hàn... Chỉ có VN thật là một bi kịch!



Còn lá "cờ đỏ sao vàng" mới nhìn thấy trên truyền hình VN tháng 10.2007 trong bộ phim Vạn lý trường chinh Trung Quốc đã gây cho tôi cơn sốc. Hết hồn mới đi tìm hiểu và có tài liệu nói: "Chính quyền cộng sản đầu tiên do Li Ji-Shen (Lý kỷ Thần) sáng lập vào khoảng (21.11.1933 - 21.1.1934) được gọi là "Chính quyền Nhân Dân" sau một cuộc nổi dậy tại Huyện Phúc Châu (Fuzhou) tỉnh Phúc Kiến. Chính quyền này sử dụng lá cờ đỏ sao vàng, với đặc điểm là ngôi sao vàng mập. Sau khi chính quyền này bị dẹp bởi các thế lực dưới thời Tưởng giới Thạch, Li Ji Shen mới đi đầu quân vào dưới trướng Mao Trạch Đông và đem toàn bộ thuộc hạ dưới trướng mình vào với Mao và trở thành phó chủ tịch nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa vào năm 1949. Trung cộng không xử dụng cờ đỏ sao vàng vì Bắc Việt đã dùng vào năm 1945. Mao mới đề nghị dùng lá cờ 5 ngôi sao. Ngoài ra, lá CĐSV (1955-2004) của CSVN dùng cũng được đảng Thanh Niên Cộng Sản Bồ Đào Nha lấy làm biểu tượng trong suốt thập niên 70s với chữ UEC tại góc phải của lá cờ.

Lá cờ trong phim đúng là cạnh cong hơi mập hơn so với sao vàng trên cờ VN hiện nay nhưng giống với lá cờ đầu tiên 1945.

Câu hỏi cần viện sử học CSVN trả lời là: "Có đúng cờ đỏ sao vàng là cờ dấy binh của tỉnh Phúc Kiến không? Có là lá cờ chung cho các cuộc dấy binh CS (Bồ Đào Nha) không?

Còn biết bao nhiêu câu hỏi cần người CSVN làm cho minh bạch, bộc lộ sự thật viết lại lịch sử cho đúng. Do đó nếu cực đoan đòi minh bạch quá khứ sẽ không mở được nút thắt của con đường hoà giải.

Nhiều người phụ nữ bị tuyên truyền qua học chánh trị cho ông Nguyễn Tất Thành có công giải phóng phụ nữ. Tôi cho là không! Lợi dụng sự thiển cận của phụ nữ dốt nát... thì có. Hình ảnh các chị phụ nữ không biết chữ, ngồi làm chánh án toà án CCRĐ hay điểm mặt chưởi địa chủ vốn 80% bị quy sai là một điều lịch sử Hội phụ nữ VN miền Bắc phải xấu hổ! Nhà văn Dương Thu Hương từng có ấn tượng rất xấu về chính người cùng giới nữ XHCN là rất đúng! Sàigòn khi thấy phòng sanh của bệnh viện Từ Dũ bị sửa thành "Xưởng đẻ" thì hết sức... bi quan!

Hãy coi Mỹ giải phóng phụ nữ bằng giáo dục và luật pháp. Thành quả là Bà Rice, Bà Hillary, Madelain Albright... ngang tài đồng sức và được Nam giới nể mặt...

Ông Nguyễn tất Thành đã móc phụ nữ nông thôn lên, miền núi xuống, đẹp thì bí mật lập hậu cung, xấu thì biến họ luôn thành ác quỷ Dracula đẫm máu trong CCRĐ. Giải phóng không phải là đánh thức bản năng "tối độc phụ nhân tâm" cho thoả sức chưởi rủa không văn hoá, ban cho họ cái quyền giết người của quỷ Satan và thần chết!

Miền Nam không ai nói nhiều về giải phóng phụ nữ nhưng phụ nữ miền Nam được đi học đàng hoàng. Được tiếp tục học, cưng như trứng mỏng. Hồi được như vậy có biết gì đâu. Bây giờ so với phụ nữ miền Bắc mới thấy cần phải gửi lời tri ân muộn màng đến các anh VNCH đã gánh vác cái chết thay phụ nữ khiến cho số phận phụ nữ miền Nam khác hẳn Thùy Trâm cùng thế hệ! Những sách dịch tài liệu giáo dục của LHQ nhằm cung cấp kiến thức chánh trị cho phụ nữ, một mục tiêu lớn của Liên Hiệp Quốc thì phụ nữ trí thức miền Nam được đọc khá nhiều để có ý thức công dân quốc gia và quốc tế.

Nếu nói nước nào Phụ nữ đích thực được giải phóng thì đó là nước Mỹ. Tôi đi Mỹ về được mấy ông bạn thân từng học ở Mỹ "hứa lèo": "Bà làm ơn đừng nói chuyện phụ nữ Mỹ với bà xã tui à nghe! Ngày 8/3 tui tặng bà không phải một bông Hồng mà... chở đến cho bà... một thúng, được không?

Tôi thách ai dám lấy danh dự mình cam đoan ông Nguyễn tất Thành đạo đức cá nhân ngang bằng tổng thống Ngô đình Diệm, không có gia đình vợ con. Ai từng xem chuyện "Mật mã Da Vinci" sẽ biết hơn hai ngàn năm sau vẫn còn có thể truy tìm hậu duệ mang gen người đời thường của Chúa Giesu. Đó là chứng minh Chúa Giesu không hề là thần thánh, có phép thần tạo dựng thế giới, khiến nhà thờ giận dỗi! Chuyện mật mã Da Vinci có thể hư cấu, nhưng khả năng khoa học phát hiện gen thì... chính xác vô cùng.

Chưa biết Ông Nguyễn tất Thành có cho "giết" nàng Nông thị Xuân khi đòi ông nhận vợ con không, nhưng rõ ràng cung cách đối xử của ông là coi nàng Xuân như kỷ nử qua đêm, xong chuyện ai về nhà nấy! Đó là cách ông giải phóng, tôn trọng phụ nữ đó sao? Ông có con không, cứ chờ để lịch sử... làm sáng tỏ!

Hoan hô người con gái là "cô du kích nhỏ miền Nam" không chịu làm kỷ nữ qua đêm, chỉ chấp nhận chênh lệch tuổi tác nhưng đòi ông Nguyễn tất Thành phải cưới hỏi công khai, không thì thôi! Lòng người con gái Miền Nam "không có cửa" cho người "vô tâm vô tình" vào!

Là phụ nữ, tôi thấy ông Nguyễn tất Thành ích kỷ, do óc phong kiến, tham vọng chức quyền nên chỉ lo bảo vệ mình. Còn nếu có giết nàng phi tần Nông Thị Xuân thì mang tội "sát thê cầu tướng" uy tín ông trong giới phụ nữ... lập tức tiêu tan!

Theo Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, việc ông Nguyễn tất Thành cưới Bà Tăng Tuyết Minh và có đứa con tên Nguyễn Tất Trung với cô Nông Thị Xuân là có thật và cần chính thức công nhận! Xin hỏi Ông Nông Đức Mạnh có dám chịu làm không?

Người CSVN nào không chịu khép lại quá khứ hay nghĩ mình đúng, mình thắng thì cứ trả lời các câu hỏi nêu trên đi!

Môt lịch sử như vậy nếu bàn "đúng sai thật giả thương ghét" chừng nào cho xong! Thôi thì gác lại, cứ từ từ bàn từng việc một cho đàng hoàng qua các hội thảo trung thực vô tư và... thông cảm. Còn chuyện hoà giải hoà hợp hai bên đều có lợi, cứ khởi đầu... nhanh nhanh đi!

II- Chấp nhận gác lại quá khứ

Hãy ít biết về lịch sử VN cho cuộc đời hiện tại đẹp hơn!

Chấp nhận gác lại quá khứ đúng vào bản tính khoan dung của người miền Nam. Một bộ phận VK ít bị tổn thương cũng dễ tiếp nhận. Tính xề xòa "xính xái" trong xóm làng này ít nhiều học theo người Trung Quốc gốc Hán. Những người Trung Quốc Hán tộc này rất đáng gọi là anh hào, không chịu cạo nửa đầu làm tôi nhà Mãn Thanh, trôi dạt về VN cùng nhau khẩn hoang sinh sống. Người miền Nam sống hoà đồng với người Hoa Hán tộc bị mất nước vào tay chư hầu thô bạo Mãn Châu, đã thà thất thổ vong gia chứ không làm nô lệ này.

Tuy nắm giữ chánh quyền và quân sự nhưng Mãn Châu đã bỏ chữ viết, bỏ nền văn hoá sơ khai của Mãn Châu để học theo người Hán và bị đồng hoá nhiều hơn. Chân Thiện Mỹ vẫn có tính thu hút cao.

Trung Quốc cũng từng bị mông cổ xăm chiếm nhưng sách lược Mông Cổ khác Mãn Châu vừa cai trị vừa mang hết tài sản của thuộc địa Trung Quốc về Mông Cổ. Dân Trung Quốc nghèo thật đấy, dù chánh phủ có thể khá.

Dân chúng VN hai miền đã hoà nhập vì không có mâu thuẫn tiếp tục trong hiện tại và tương lai, dù chưa phải đã hiểu lịch sử VN hoàn toàn giống nhau.

Một bộ phận miền Nam bị thương tổn nhiều thì cần có thời gian thêm. Người vết thương lòng còn quá lớn, muốn gác lại quá khứ phải bắt đầu bằng những an ủi như tạo điều kiện cho chăm lo mộ phần người thân còn ở VN, giúp di dời mộ người thân chết trên đường ly hương về quê nhà.... Xin hai bên cùng nghĩ trong chiến tranh bom đạn vốn vô tình, không thể gọi ai là "địch thủ" vì không ai oán thù ai. Chiến binh hai bên giống như hai con dế vô tư, bị quay mòng mòng, rồi xô vào nhau cắn xé dành sự sống.

Đó là sự tàn bạo luôn có trong bất cứ cuộc chiến tranh nào!

Lầm lạc hay lợi dụng lòng yêu nước của một nhóm chóp bu CSVN bị Liên Xô Trung Quốc kềm chế hay do sáng tạo cá nhân từ lòng dạ không hiền như ông Lê Đức Thọ thì giờ này cũng theo nhau... chết gần hết rồi! Hãy để lịch sử xa hơn chút nữa phán xét. Và nên tin là lịch sử không dung tha tội thảm sát, óc lệ thuộc, trách nhiệm việc gây nội chiến đau thương. Sống giàu mà gian tham cũng khó sống an nhàn lắm!

Ở VN thảm cảnh xảy ra ở cả hai phía chứ nỗi khổ không chỉ riêng ai!

Trí thức XHCN miền Bắc dễ dàng quên mau vì cuộc sống nay đã mở ra không còn vướng mắc, chết chóc, nỗi buồn người thân chết trận qua mau vì tạo cho họ được sống trong thế chánh trị ưu đãi. Trí thức XHCN đang nắm quyền cao có một số chính là hậu duệ của người tham gia tích cực trong thảm sát CCRĐ, quên tốt hơn là nhớ lại! Ca tụng ông Nguyễn tất Thành là chấp nhận 200 ngàn cái chết trong CCRĐ hoàn toàn không cần thiết cho nền kinh tế đất nước nhưng lại tối cần cho quyền lực cá nhân Ông Nguyễn tất Thành.

Dù sao CSVN cũng đang làm giống quá trình kẻ thắng trận ô hợp Mãn Châu. Đồng hóa vào nền văn hoá vào chân lý mà miền Nam, LHQ, ASEAN, WTO sở hữu.... Đừng mau quên là CSVN từng ra rả chưởi rủa thô bạo khi chưa được vào các tổ chức này. Miền Nam trong chế độ VNCH đã đi trước bước đi vào văn hoá văn minh này thì tính ngụy ở chỗ nào?

Chính ở VN còn khá nhiều ý kiến chủ quan cực đoan, còn nhiều người "đánh đồng mình với quá khứ CS" mong hưởng chánh sách ưu đãi hay đang hưởng ân điển của CS.

Tuổi già một số lớn người luôn lo sợ thay đổi, không còn khả năng phán đoán đúng sai, bị giam nhốt trong niềm tự hào quá khứ sai lầm và... tiền lương hưu!

Trong ký ức người CSVN chỉ biết hể thay đổi thì phải bằng "bạo lực cách mạng" như thảm sát CCRĐ kinh hoàng. Vì hiểu sai về chuyển biến hoà bình nên với người CSVN "thay đổi" đồng nghĩa sẽ có "bạo loạn" chết chóc "máu đổ đầu rơi ". Chí ít con cái của họ mất vai trò đang nắm giữ nhờ đặc quyền.

Nhiều người phía CSVN nghĩ họ là phía đúng, phía khoan dung, phía lợi thế, nhưng chẳng sao, cứ âm thầm hảnh diện trong sự ngộ nhận trong khi chờ lảnh lương hưu hay chờ chết! Mặc kệ họ như ông Putin đang làm. Nhưng nhà nước, người có trách nhiệm thực hiện nghị quyết 36 của CSVN đừng đòi phải ca tụng người chết, ca ngợi CS mới chịu... khởi đầu hoà giải.

Hoà giải phải trong tư thế "không ai danh dự, không ai tội lỗi " tuyệt đối tránh nhắc lại quá khứ.

Đây là suy nghĩ của người Miền Nam như tôi với hai quan điểm minh bạch:

1- Thứ nhất là không tin vào các hoạt động đảng CS trong cả quá khứ hiện tại và tương lai vì sai lầm liên tục. Không cho học thuyết Mac-Lê là đúng mà đó là tai họa.

2- Thứ hai thương ghét tin hay không tin con người VN trong ngoài guồng máy CS chỉ tùy cá nhân người đó tốt xấu.

Lộ trình dân chủ hoá trước nhất là chuẩn hoá sát hạch cán bộ, loại bỏ đặc quyền, bầu cử tự do để loại bỏ bè phái và toàn trị. Không nhà đấu tranh dân chủ nào tán thành kiểu "bạo lực cách mạng" kiểu của CS cả! Phải là cuộc chuyển biến hoà bình.

Giao quyền cho ai phải bỏ ngõ vì là kết quả bầu cử của dân chúng. Làm việc nước nghiêm túc, có hạn kỳ, không bắt chước ông Chavez đã bộc lộ rõ là người cơ hội muốn làm vua... suốt đời hay như ông Putin muốn lòn lách luật cầm quyền tiếp. Putin không có được sự cao cả như nhà tư tưởng Gorbachev chỉ làm cố vấn tự nguyện cho Putin! Dân còn khờ có bầu sai cũng chỉ phải ráng chịu vài năm thôi!

III - Không chấp nhận gác lại quá khứ

Một số VK và khá nhiều người CS không chấp nhận gác lại quá khứ. CSVN nghĩ VNCH là kẻ xấu, kẻ sai, là "bại thù" miền Nam VNCH tất yếu... cần phải có tội ít nhiều! Muốn hoà giải phải là làm mạnh thêm cho CS chứ không phải làm mạnh thêm cho đất nước! Hoà giải nhưng CS là phe đúng phe thắng phe trên trước! Bà Tôn nữ Thị Ninh mang định kiến sai đó nên chỉ chọc tức cộng đồng người VN thôi, bị từ chối là phần chắc!

Nhưng phải công nhận họ cũng có lý do rất mạnh mẻ. Có thế nói cách làm sáng tỏ lịch sử là hay nhất nhưng như trên đã nói, do không thể, chưa thể mà đành gác lại. Người miền Nam như tôi cũng vẫn rất tự tin phía VNCH không sai lầm, không đẫm máu, không gây thảm sát. và cũng muốn minh bạch với lịch sử. Chánh quyền VNCH có không giỏi, có tham nhũng nhưng chỉ 1/10 hiện nay và nhất là không thảm sát. Nếu phía CSVN nghĩ là phía đúng, phía khoan dung thì cứ cho công khai đưa sự kiện lịch sử ra tranh luận. Không tranh luận thì không có chuyện công nhận đâu!

Vì nghĩ yêu cầu làm sáng tỏ này quá căng thẳng, e không bắt được nhịp ôn hoà trong tiến trình chuyển biến hoà bình giúp hai bên xích lại gần nhau phải nên tạm gác lại quá khứ. Nên tin lịch sử không bỏ sót việc gì bao giờ.

Ba chuyện gây hại làm tan hoang đất nước phải ăn bobo súc vật mà CSVN nay đã phải công nhận sai: Cải cách ruộng đất, Nhân văn giai phẩm và Kinh tế bao cấp... Còn bao nhiêu huyền thoại cần làm sáng tỏ như chuyện Lê Văn Tám, chuyện vợ con, trai gái của ông Nguyễn tất Thành thật sự cũng đâu khó chứng minh.

Khoa học có khả năng bạch hoá mau chóng, làm sáng tỏ chính xác các bí ẩn. Người không chịu gác lại quá khứ thì có quyền hỏi vì sao lại không xác nhận tình trạng gia đình vợ con ông Nguyễn tất Thành bằng kỷ thuật gen để đánh giá có sự che giấu dối trá lý lịch không?

Pháp, Trung Quốc sao không công bố ai bán cụ Phan Bội Châu.... Phải truy điệu người chết trong thảm sát CCRĐ, người chết trong Nhân văn giai phẩm, bị thanh trừng trong vụ xét lại chống đảng... Một lịch sử bộn bề như thế là không giải quyết nổi, phải để từ từ. Không làm một lúc quá nhiều việc và "gác lại" chứ không phải "bỏ qua" quá khứ... Xin thử làm một cuộc giải trừ ngộ nhận, bộc lộ phần ngầm lịch sử:

Trước đây, đọc bài viết dưới đây, tôi mất lòng tin khủng khiếp vào trí thức XHCN, cuộc chiến tranh ma mị khốn khổ làm chết 3,8 triệu người là hoàn toàn bằng luận chứng... dối trá.

Nghe ông Triết nói "máu đổ đầu rơi" tôi rất suy nghĩ, e rằng ông Triết "ngây thơ nguy hiểm" khi tin các bài viết hoàn toàn dối trá mà ông còn cho lưu hành trong trang Web của chánh phủ hiện nay như sau:

"Theo luật 10-59, ban hành ngày 6 tháng 5 năm 1959 thành lập các "tòa án quân sự đặc biệt", tội xử chỉ có hai mức: tử hình và khổ sai chung thân. Xét xử chỉ được phép kéo dài tối đa 3 ngày, không có giảm khinh, không có kháng cáo, bản án thi hành ngay... Không kể đối với "cộng sản đã ngoài vòng pháp luật", tức không cần xét xử, luật này giành cho tất cả mọi người được quy là "phá rối trị an". Không lúc nào máy chém thịnh hành hơn lúc này. Máy chém của Diệm lê về tận xã ấp. Máy chém đặt giữa các chợ Trung Hòa, Tân An Hội (Củ Chi), kèm theo lời đe dọa của chính quyền Diệm: "Ai liên quan đến cộng sản sẽ mất đầu". Cái máy chém trở thành biểu tượng của chế độ Diệm.

Tên quận trưởng Bình khét tiếng tàn ác, đã chỉ huy mổ bụng, moi gan trên 280 người. Đồng Găng, Mít nài, Cây Sộp (xã Tân An Hội), Gót Chàng, Cổ Cò, Gò Nổi (An Nhơn Tây).... đã chứng kiến không biết bao nhiêu vụ chặt đầu, mổ bụng chiến sĩ và đồng bào. Cho đến năm 1959, ở Củ Chi đã có 500 người bị moi gan mổ bụng, 600 người bị dồn vào bao bố cột đá dìm xuống sông, 150 người bị buộc vào sau xe ôtô kéo trên đường đá... Toàn bộ số cán bộ ở Củ Chi bị bắt, bị giết lên đến 75%".

Có những vụ hành hình gây nên làn sóng đấu tranh mãnh kiệt, như vụ mổ bụng anh Từ Văn Sến đã gây nên một cuộc biểu tình, đơn tố cáo lên quận rồi lên tỉnh trưởng Bình Dương. Tiếp đó địch mổ bụng anh Trương Văn Ba ở Phú Hòa Đông. Đồng bào mang xác anh Ba lên thẳng tỉnh Bình Dương để tố cáo. Tỉnh trưởng lánh mặt, binh sĩ ra mở cửa, đồng bào khiêng xác anh Ba vào. Tên tỉnh trưởng buộc phải ra nhận bồi thường và đổi bọn ác ôn đi nơi khác. (HCM CityWeb đang lưu hành!)

Hoàn toàn dối trá! sao ông Triết cả tin cho lưu hành bài viết này trong trang Web thành phố HCM nơi ông từng làm bí thư! Hèn chi, ông luôn bị ám ảnh cảnh "máu đổ đầu rơi"!

Chưa từng có quận trưởng Bình nào mổ bụng moi gan 280 người!

Nếu có ông Bình thật phải đưa vào "lịch sử thảm sát" giống như chuyện Mỹ Lai!

Ông Tướng Loan bắn có một đặc công thật đã bị... mất chức!

Chưa từng có bức hình nào về 150 người bị buộc vào sau xe ôtô kéo trên đường đá. Trái lại hình ảnh ghi lại cảnh chôn sống trong CCRĐ có rất nhiều. Chuyện cắt nghĩa xuyên tạc vô lý như vầy, thì lười suy nghĩ mới tin. Lẽ nào chủ tịch nước VN lười suy nghĩ khiến CS tha hồ nói dối như... Bác Ba Phi! Lịch sử hôm nay phải nhọc nhằn đính chánh giải trừ ngộ nhận.

1- Câu "cộng sản đã ngoài vòng pháp luật", tức không cần xét xử là nói sai. Ngoài vòng pháp luật trong chế độ đa đảng đa nguyên VNCH tức là không cho phép đảng CS hoạt động, không cho ứng cử vào quốc hội như đảng phái khác!

40 năm sau nước Nga cũng cấm đảng CS hoạt động do cho là tai họa, y như thế đã chứng minh ông Diệm có viễn kiến đúng hơn cả Lenin-Stalin!

Nhật có đảng CS còn tồn tại nhưng nay tuyên bố thay đổi cương lĩnh chấp nhận nguyên tắc dân chủ tự do nghị trường và không theo cách dùng "bạo lực cách mạng" dành chánh quyền.

2- Thật hoang đường khi có thể đếm kỹ và toàn là con số chẳn tròn vo 280, 500, 600, 150...! Là chuyện Lê Văn Tám, hư cấu hoàn toàn, được lồng vào địa danh thật đâu đó là lập tức thành sự thật. Thống kê mới đây cho thấy dân VN do dốt nên... dễ tin vào tuyên truyền nhất thế giới!

3- Về các vụ đấu tranh cho nạn nhân Từ văn Sến và Trương văn Ba không ngày tháng, làm sao kiểm chứng?

Một ngàn hai trăm năm mươi vụ khác không có phản ứng nào của dân chúng sao? Bình Dương và Vĩnh Long là quê hương của ông Nguyễn Minh Triết và ông Võ văn Kiệt. Chính thức nhất là tài liệu "bia căm thù". Tôi tỉ mẫn đọc các "bia căm thù" thời chống Mỹ của CSVN, truy tìm về 2 xã trùng tên Xã Tân An Hội-Củ Chi và Tân An Hội-Mang Thít-Vĩnh Long. Chỉ ở Tân An Hội Vĩnh Long có Văn bia được gọi theo CSVN là "bia căm thù" dựng lên ngay tuyến đường chính đến trung tâm huyện đặt tại xã Tân An Hội ghi nhớ hàng trăm con người đã nằm xuống do bom đạn của đế quốc Mỹ. Máu có đổ, nhưng đâu theo cách "đầu rơi moi gan mổ bụng"! Máy chém chưa đủ ghê, nên vẽ thêm chuyện moi gan mổ bụng!

Viết bài kiểu trời ơi đất hởi, ông Triết và đảng viên đảng CS cần chịu khó kiểm tra lại chứ? 4- Theo tư liệu chuyện mổ bụng là có thật nhưng do Ba Cụt làm. Ba Cụt là "loạn binh" thiếu vũ khí đạn dược nên "chặt đầu mổ bụng thả trôi sông" là có. VNCH không thiếu vũ khí mất công mổ bụng làm gì! Mà Ba Cụt đã bị tử hình từ năm 1956.

Ngày 8.1.1956 quân Ba Cụt đột nhập xóm Thầy Quân ở Cà Mau, bắt Thiếu Úy Bùi Quang Thừa của VNCH và một số viên chức hành chánh đem ra mổ bụng. Ba Cụt là nhánh Hoà Hão không theo Ông Diệm, tuy xưng "chống Pháp, chống Cộng" để ngã giá hợp tác với ông Diệm nhưng thực sự theo Bình Xuyên do Pháp trợ giúp, giết người thả trôi sông, mổ bụng, đòi tiền... thu thuế! Sĩ quan của Hoà Hảo nhóm theo Bình Xuyên được Pháp đở đầu được nằm điều trị ở bệnh viện Grall của Pháp ở Sàigòn miễn phí... 5- Pháp là con rắn độc hai đầu, một đầu làm đồng minh của Mỹ một đầu chống Mỹ qua tay người khác! Pháp là nước "mới sinh ra đã chống Mỹ" vì mang mối hờn loại truyển kiếp. Mỹ không cứu trận Điện Biên Phủ, bị Mỹ buộc trả chủ quyền cho ông Diệm, luôn bị Mỹ ngăn chặn óc tham lam khai thác thuộc địa. MTGPMN là tổ chức tiếp nối thay chân Ba Cụt. Pháp ủng hộ để MTGPMN... chống Mỹ thay Pháp! Người VN đừng quên nền chánh trị hoạt đầu của Pháp và đừng kỳ thị trí thức Pháp vì trí thức Pháp nhất là trí thức đã từng đi Mỹ làm việc chung với khoa học gia Mỹ Việt đã thấy ra chân tướng này từ lâu. Lần này, ông Tổng thống Sarkozy của Pháp làm một bước đi ngoạn mục là... hoà giải với Mỹ chinh phục lòng dân Mỹ chứ không đối đầu nữa.

Món nợ Pháp Nhật gây nạn đói Ất Dậu sao chưa có văn bia, coi rẻ coi khinh dân VN, đày Vua Việt Nam, giam và giết các chí sĩ, xin đừng vì Pháp ủng hộ MTGPMN mà CSVN đành lòng... bỏ qua!

6- Khi nói dối thì không thể có khớp nối kết, trong bài viết về khám Chí Hoà, cũng trí thức XHCN của CSVN ta viết:

Chiếc máy chém này có từ thời Pháp được chuyển từ khám Catina sang, do tên đội Phước phụ trách. Theo tài liệu cũ để lại, người cuối cùng chết với chiếc máy chém này là Ba Cụt, tức Nguyễn Văn Vinh, tướng Cao Đài, bị Ngô Đình Diệm giết. Ngày trước, hàng năm vào ngày rằm tháng bảy âm lịch, bọn quản đốc nhà giam tổ chức cúng chiếc máy chém này. Nhiều tù nhân cũng đến thắp hương, lễ bái.

Hai chi tiết sai: Ba Cụt tức Lê Quang Vinh và là Trung tướng Hoà Hảo (tự phong) không phải Cao Đài.Vậy 1959 làm gì có dùng máy chém lê đi khắp nơi?

Ba Cụt bị bắt, ngày 24/4/1956. Tòa Đại Hình xử sơ thẩm vụ Ba Cụt mở tại Cần Thơ ngày 11/6/1956. Gia đình Ba Cụt đã thuê hai luật sư danh tiếng để biện hộ cho Ba Cụt là Luật Sư Vương Quang Nhường, Thủ Lãnh Luật Sư Đoàn Sài Gòn, và Luật sư Lê Ngọc Chấn, lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Ngày 26/6/1956 Tọa Thượng Thẩm Đại Hình tại Cần Thơ đã họp để tái thẩm do có kháng án của Ba Cụt. Phiên Tòa kéo dài trong hai ngày xử các tội giết quân nhân VNCH, giết người cướp tài sản các nạn nhân có mặt tại toà tố cáo. Ngày 4/7/1956, chuyển qua Tòa Án Quân Sự tiếp tục xét xử tội phiến loạn vũ trang chống chánh phủ. Tòa tuyên án tử hình Ba Cụt, tước đoạt binh quyền và tịch thu tài sản.

Ba Cụt 32 tuổi, bị hành quyết tại nghĩa trang ở đường Hòa Bình, Cần Thơ, vào lúc 5 giờ 45 phút sáng ngày 13/7/1956, bằng cách chém đầu.

Ba Cụt vừa nhận tài trợ tiếp tế vũ khí của Pháp nhưng cũng đánh Pháp, đánh Việt Minh giết cả VNCH theo kiểu "sứ quân, anh hùng Lương sơn Bạc" không theo kỷ cương nào thành ra nguy hiểm cho mọi phía.

Bản án tử hình được chánh phủ Nguyễn Khánh bãi bỏ.

Vợ Ba Cụt là Bà Hoa tự Phấn sau đó là dân biểu quốc hội VNCH. Sau 1975 bị đi cải tạo và giam giữ cùng với ông Lê Quang Liêm thủ lĩnh Hoà Hảo. Bà Hoa hiện đang định cư ở Bỉ. Bà vừa sang Mỹ ra tuyên bố 11.2007 ủng hộ ông Lê Quang Liêm - Hòa Hảo và Phật giáo là cánh Thầy Thích Quảng Độ.

7- Cũng nói về máy chém, tỉnh Tiền Giang viết khác:

Ngày 6-5-1959, Diệm cho ban hành luật phát xít 10/59, đưa máy chém đi khắp nơi giết người không cần xét xử để khủng bố những người yêu nước. Tháng 5-1959, ngụy quyền đưa máy chém về tỉnh chém đồng chí Vương Trì Thống ở huyện Chợ Gạo, đồng chí Võ Văn Bảy ở xã Thạnh Phú, huyện Cai Lậy để uy hiếp tinh thần nhân dân. Hai người này phạm tội gì, bị ra toà kết án ra sao, bị chém ngày nào, sao viết lơi khơi tháng 5-1959? Tháng 6/5/1959 có luật thì mấy ngày sau là có chém? Luật VNCH ứng đáp lẹ như chớp vậy sao?

8- Máy chém này hiện đang trưng bày ở bảo tàng Cần Thơ. Ai chưa biết máy chém thì vào xem cho biết. Thử ngẫm nghĩ mà coi, nó to nặng thể nào, có "lê máy chém" đi về Xã, Huyện được không nào! Đừng coi phim Tàu Bao Công trảm thủ rồi tưởng giống "Cẩu đầu trảm" hai lính Khai Phong phủ khiên ra cất vào và dùng tay xắt tử tội rụng đầu ngay trước bàn xử án như... bên Tàu nhe!

Nhà giam Hoả Lò cũng có một máy chém củ sét hơn. Máy chém là phương tiện của Toà án, có người đặc cách gìn giữ. Máy chém phải lắp ráp khá phức tạp, khối sắt rất nặng và cao khoảng 2,5-3 mét, lưỡi dao là khối thép dày bề ngang chừng 0,6 đến 0,8 mét dài chừng 1,2 mét, phần lưỡi xéo góc hình tam giác, rất bén và nặng, rất nguy hiểm do treo cao hơn hai mét trong trạng thái di động dễ rơi phập xuống, làm sao mà chuyên chở, làm sao mà "lê đi khắp nơi", mang cả ra ngoài chợ rồi ai bảo quản để còn có thể sử dụng?

8- Ông Triết ơi, chuyện "lê máy chém" ông cho đăng trong trang Web Thành phố HCM cho đến bây giờ là hư cấu, là chuyện ma. Tội nghiệp cho ông tin nên bị nhát ma sợ "máu đổ đầu rơi" hoài!

9- "Truất hữu ruộng đất của chính phủ và "tiểu điền chủ hóa tá điền" nhằm thực hiện ý đồ xóa bỏ hoàn toàn chủ quyền ruộng đất do cách mạng cấp cho nông dân, gây mất đoàn kết trong nhân dân và sâu xa hơn là chúng biến địa chủ thành tầng lớp tư sản mới làm chỗ dựa chính trị cho ngụy quân ngụy quyền."

Nói dóc thầy chạy! Cách mạng nào cấp đất cho dân làm chủ quyền trên 100 hecta, để bị Ông Diệm truất hữu cấp cho người khác xoá chủ quyền ruộng đất do cách mạng cấp? Thật không liêm sĩ, bẻ cong ngòi bút, bôi lọ lịch sử thành công của miền Nam, nói tốt thành xấu. Thời ông Diệm truất hữu không triệt để, ít xáo trộn vì còn cho giữ lại tối đa đến 100 hecta, có hợp đồng cho phép cho thuê ruộng thu tô với mức thấp được ấn định. Số còn lại cấp cho nông dân, một số là giáo dân người Bắc di cư. Long Xuyên Rạch giá mới đầt rộng dân thưa nên nhiều người Bắc di cư, do đi theo ruộng mà về An Giang Hà Tiên... Thời Ông Thiệu có thêm một đợt truất hữu và chỉ cho địa chủ giữ tối đa 20 hecta số cho thuê bị truất hữu tức mua lại giá rẻ. VNCH khai thác nông nghiệp hiệu quả nên có xuất khẩu gạo dù còn chiến tranh.

Nông thôn bị CS uy hiếp phải nuôi chứa tuyển quân, giống nhóm Naxalite Maoist Ấn Độ khủng bố hiện nay. Rồi bị Hoà hảo thu thuế tuyển quân, đến quân dịch của VNCH thành ra nỗi khổ triền miên của dân chúng hiền lành với bi kịch... theo ai cũng chết! Con trai hể tới tuổi phải đi lính hoặc bên này hoặc bên kia! Hai anh em theo hai ba bên để cha mẹ em nhỏ còn được đứng giữa sống tại chổ làm ăn!

10-Việc an cư cho Việt Minh thì được cho là:" ép buộc những người kháng chiến tham gia vào chính quyền của chúng nhằm tranh thủ nhân tâm!"

Đây đâu phải là chánh sách xấu mà quá nhân đạo!

Một thanh niên Hà Nội đầy nhiệt huyết, sau khi đất nước thống nhất vào Sài Gòn sinh sống. Khi học đại học đã tò mò hỏi các nữ sinh Sài Gòn về những người được mô tả trong nhạc phẩm "Cô Gái Sàigòn Đi Tải Đạn" này thì được trả lời: "Làm gì có vụ đó... cha nội!" (Tạp ghi) cũa Trà Bồng.

Là người VN, luôn ít tinh thần trung thực, chắc nhạc sĩ Lư nhất Vũ không dám minh bạch xác nhận là hư cấu 100%. Trong khi đó, nhiếp ảnh gia Mỹ đã xin lỗi gia đình tướng Loan vì hình ảnh chỉ có "một nửa sự thật" của mình. Ông công nhận trong tình huống ông Loan, biết hai đứa con gái nhỏ, con đở đầu của mình, trong một gia đình cảnh sát bị đặc công CS sát hại toàn gia, gần nơi đặc công Nà bị bắt, quả tình không ai còn có thể làm khác!

Ai về miền Tây cũng đều gọi món "cá rô phi chiên xù chấm nước mắm ớt tỏi". Việt Kiều còn thích thú cách trang trí cá chiên Xù đứng trong dàn gỗ, trang trí hành ngò, trông giống như cá đang lội trong đám rong. Không mấy ai còn nhớ chuyện năm xưa khi nông nghiệp miền Nam nhập và khuyến khích nuôi cá rô phi này thì VC đi các chợ tuyên truyền ăn cá rô phi... bị cùi làm không ai dám ăn. Tôi nhớ vì đi chợ suy tính hoài nửa tin nửa ngờ, cuối cùng cũng không dám mua cho gia đình ăn vì biết đâu nè, lỡ có thật thì sao! Tôi cũng từng... khờ thiệt!

Còn Tây thử máu chích ngừa dịch tả chủng đậu thì đồn Tây rút máu trẻ con và chích cho điên khùng!

Nhà ma cũng là sản phẩm của VC để có chổ vắng vẻ... họp bàn chuyện phá rối!

Ở Phước Long (Bà Rá) thì phá bầu cử bằng cách đi từng nhà người Thượng nói gạt "siêu đẳng" luôn: "Ớ! sáng mai đi bầu cử, nhớ xếp hình ông Diệm như vầy, đem về vắt trên cửa ớ! Để hình tổng thống trong nhà lính đi ngang khen mình đi bầu tốt ớ!"

Nói nào ngay, VC phá thôi chứ cũng ít chết ai, nên Bộ đội miền Bắc không hài lòng phải vào đánh giúp, cũng như VNCH giỏi mà ít chịu đánh, Mỹ phải đánh dùm! Thôi thì... hoà cả làng đi cũng được mà!

Trí thức XHCN không ít người tin là có Lê văn Tám thật, có cô gái Sàigòn đi tải đạn thật, và có moi gan hàng ngàn người là đồng chí của CS thật. Cũng vì ngộ nhận đó mà trí thức XHCN miền Bắc lên tiếng (trên BBC) cho rằng sau 1954 miền Nam đã loại trừ hầu hết CS cài lại ở Miền Nam và điều này khiến Miền Bắc đau lòng phải đánh vào Nam vì không nhịn được.

Đó là vì nghe tuyên truyền chỉ có cảm xúc không nhiều lý trí. Xin tìm hiểu thêm: Bao nhiêu người "Đặc cách ở lại miền Nam" do chưa bị lộ. Bao nhiêu đã bị bắt, bao nhiêu tham gia làm công chức bình thường, số còn theo CS còn liên lạc được quả là rất ít, nhưng số không còn liên lạc đâu nhất thiết là số đã bị... giết chết?

Chính thức CS Hà Nội chỉ dám nói là "chống Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam" đâu có dám nói là có thảm sát. CCRĐ đúng là thảm sát, Mậu thân là thảm sát...

IV- Nếu miền Nam tin theo Mỹ đã tốt hơn

Nhìn lại lịch sử, nếu miền Nam chịu tin theo Mỹ, lo củng cố chánh quyền, không tham nhũng thì không rơi vào bi kịch hôm nay mà là một nước Nhật hay như một Nam Hàn đã cơ bản tự tin bước vào thế giới văn minh. Cái cách ngây thơ, cả tin, anh hùng tính cá nhân, nghe nịnh nghe khen nghe rỉ tai là tin theo, lười tư duy độc lập của "sĩ phu" cả miền Bắc lẫn Nam đã làm cho bản thân mình đi vào cửa tử và làm cho đất nước suy vong vì quá dễ bị chánh trị lợi dụng.

Tiến trình hội nhập cộng đồng quốc tế là không đảo ngược. Nhưng sự mất cân đối kinh tế-dân số khiến cuộc tranh sống ở Trung Quốc và Việt Nam trong nước, hình thành nên số người do ít lòng tự trọng làm kẻ cơ hội, vào đảng để dựa và thế lực chánh trị leo lên nên khá dễ rơi vào tệ nạn tham nhũng. So sánh mức tham những hiện nay và miền Nam xưa là gắp 10 lần. Số công chức sống bằng bỗng ngoài lương nay là 90 %. Cá biệt 10% là số "chân trong chân ngoài" như Bác sĩ, Dược sĩ, Kỹ sư, Phi công... đi làm thêm với công ty nước ngoài mới có điều kiện để... chân chính!

Rất nhiều chứng cớ cho thấy không mấy đảng viên CS bênh vực gì cho chủ thuyết, chỉ bênh vực ông này ông kia theo cách bè phái dựa nhau tồn tại hưởng đặc quyền. Tính đảng đã mất chỉ còn tính bè.

Miền Nam trong chế độ VNCH đã bước đi trước 1975, có triết lý cầm quyền tốt và thu đạt nhiều thành công. Miền Nam chắc chắn có nền văn hóa văn minh cao hơn không có gì là cao ngạo khi nói như vậy!

Quá khứ không sửa đổi được, quá khứ lẽ ra cần minh bạch nhưng phải để vào vai trò thứ yếu. Hiện tại và tương lai phải đặt lên trên. Dù biết rằng lịch sử luôn phải làm sáng tỏ mới đem đến thanh thản và rút tỉa nhiều kinh nghiệm.

V- Bôi trơn guồng máy

Về những người CS đạo đức, nhưng bị kẹt trong chiếc xe chết máy.

Nhiều lắm, khó nói cho hết... Ba người còn sống và còn ảnh hưởng lớn là Bác Giáp, ông Kiệt và Cụ Hoàng Minh Chính.

Cụ Hoàng Minh Chính thì chánh kiến tiên tiến, can đảm và tận tụy, chưa biết gì về quan điểm lập trường chánh trị cũng đem lòng... khâm phục.

Bác Võ nguyên Giáp từng kẹt giữa vòng vây của các đồng chí của Bác! Bác Giáp biết cách yêu nước tức Bác Giáp làm bất cứ điều gì miễn "có lợi cho dân cho nước".

Người ta chê trách ai đó cố tình bỉ mặt Bác Giáp. Và chê trách cả Bác Giáp nhận làm là không... anh hùng! Nhưng cũng không hẳn là vậy! Làm vè chê đủ thứ, nhưng không làm "xao lòng" người có chí lớn!

"Ngày xưa Đại tướng "cầm quân",
Bây giờ Đại tướng "cầm quần" chị em! "

Bác Giáp là thầy giáo, là trí thức không phải gốc quân nhân chuyên nghiệp. Bác đánh trận có thắng cũng là do sự thông minh tài năng đa phương nhiều lãnh vực của Bác Giáp. Hai lãnh vực Bác muốn làm tiếp là "sinh đẻ kế hoạch và giáo dục" theo tôi lúc đó quả là cần thiết hơn chuyện Bác Giáp làm Tướng nhiều...! Ở Trung Quốc chính chủ tịch nước làm chánh sách sinh đẻ kế hoạch một con. Đó là con đường để giàu mạnh, VN cũng vậy. Chuyện này Tàu làm hay, học được, thì VN không chịu học, không ai chịu nghe, chịu làm. Trong Nam ông Diệm đạo Thiên chúa từng không chịu làm SĐKH. Ngoài Bắc, dưới quê, nghĩ kế hoạch rồi lấy ai đánh giặc. Cái gì cũng cấm, gần vợ cũng cấm? Mọi người đã tấn chuyện khó cho Bác Giáp!

He he, tôi làm ngành y tế nên thích có người tốt bụng có viễn kiến như Bác Giáp tham gia cùng!

Còn một mình Ông Kiệt dù tốt, ông lo thăm đầu này an ủi đầu kia không hết số người... còn buồn, đánh đông dẹp Tây cũng không hết... "ma trơi" tiêu cực.

Mọi thứ đâu sẽ hoàn đó. Một ngày không xa lắm sẽ theo Bác Giáp-ông Kiệt về... chín suối!

Bác Giáp - Ông Kiệt cần yêu cầu ông Nông Đức Mạnh thúc đẩy cơ chế dân chủ.

Chỉ có cơ chế dân chủ để dân tham gia, loại trừ mới nổi người xấu đã được trang bị quyền lực. Nếu xấu sẽ bị tước quyền nhanh qua bầu cử! Người tốt trong đảng CS cũng được yên vì dựa lưng được vào khối đông dân chúng vô tư, chứ không cần phải dựa vào vài cá nhân tốt xấu nào đó để được... đỡ đầu sai bảo!

Lịch sử chánh trị VN có phần ngầm và phần sai quá lớn. Nó ma mị như chuyện Lê văn Tám... tin vào thì sẽ mang định kiến và ngộ nhận.

Cho nên chỉ có thể lấy nguyên tắc "Không ai danh dự, không ai tội lỗi" để làm khởi đầu tốt đẹp cho con đường hoà giải!

Trần Thị Hồng Sương
(Cần Thơ)

Tái diễn bi kịch cô dâu Việt ở Hàn Quốc


Kỳ 1: Cuộc hôn nhân hãi hùng
Họ kết hôn với đàn ông Hàn Quốc không phải qua đường dây chui, mà từ một tổ chức hoạt động hợp pháp. Thế nhưng những gì mà họ đã trải qua nơi xứ người không khác gì những cơn ác mộng...
Vừa xuống sân bay, V. (*) đã lập tức gọi điện hẹn gặp chúng tôi. Gương mặt, giọng nói của cô gái trẻ vẫn còn vẻ bấn loạn chỉ sau gần 1 tháng lấy chồng Hàn Quốc...

Một đám cưới giữa chú rể Hàn Quốc và cô dâu Việt - Ảnh: PIM


Ông chồng quái gở


V. là một cô gái thế hệ 8X, đã học xong cấp III, có suy nghĩ độc lập. V. giải thích vì cuộc sống "có những nỗi buồn riêng", nên cô nghĩ lấy chồng Hàn Quốc sẽ là giải pháp làm thay đổi đời mình. Qua mai mối V. gặp một người đàn ông Hàn Quốc có họ là Kwon, tuổi gần 50, ở tỉnh Chungcheongbuk-do. Người này được giới thiệu là "kỹ sư xây dựng", đã có một đời vợ và thu nhập hằng tháng độ 7.000 USD. Cô chấp thuận, còn người đàn ông Hàn cũng tỏ ra ưng ý vì "thấy em vui vẻ".

Lúc qua Hàn Quốc hai vợ chồng sống trong một căn hộ chung cư. Người chồng mua cho V. điện thoại, máy vi tính để trong phòng. Qua những người Hàn Quốc khác, V. biết rằng cô không phải đời vợ thứ hai mà là thứ... tư. Trước đây chồng cô đã có hai đời vợ Hàn và một vợ Việt Nam. Người vợ Việt trước kia chỉ ở được với ông ta chưa đầy một tháng là trốn mất. V. hỏi thêm thì mới biết thu nhập ông chồng mỗi tháng không tới 7.000 USD như giới thiệu lúc đầu. Và ông "kỹ sư xây dựng" này cũng chỉ toàn ở nhà, chẳng thấy đi làm. Ông này nói, do mới cưới vợ nên tạm nghỉ việc để "thụ hưởng hạnh phúc vợ chồng".

V. kể chồng cô ngày nào cũng đòi hỏi chuyện chăn gối. Lúc vừa mới qua còn mệt, V. có lần từ chối. Chỉ có vậy mà ông này đã nổi cơn thịnh nộ, lột điện thoại, gỡ máy vi tính, ôm cả con heo đất bỏ tiền xu của vợ về phòng. Nhưng ngay hôm sau ông ta xin lỗi và đề nghị V. nên "chiều" ông hai ngày một lần.

Trong vai trò người vợ, V. phải cơm nước, phục dịch chồng. Nếu không vừa ý là ông ta lập tức nổi nóng. V. kể, ăn cơm xong là ông ta xem tivi ngay, và luôn bắt V. ra ngồi cùng. Vừa xem tivi ông ta vừa sờ soạng rờ rẫm, và buộc vợ cùng tham gia... Ông ta còn có những hành vi tình dục khác thường, nếu không nói là quái gở. V. vẫn phải "chiều" ông ta mọi lúc, mọi nơi; thậm chí ngay cả lúc đi thăm bạn bè...

Điều ghê tởm nhất với V. là sau mỗi lần vợ chồng cãi vã, khi cơn giận chưa nguôi, ông ta vẫn chỉ tay lên giường, ra hiệu cho V. phải thực hiện "nghĩa vụ". Ông ta điềm nhiên làm chuyện đó như chưa từng xảy ra chuyện gì giữa hai người, và không cần quan tâm cảm xúc của vợ thế nào. Nếu V. phản ứng, ông ta lại cầm cuốn sách song ngữ Hàn - Việt chỉ vào đó, để cho vợ biết là: ông bỏ 25.000 USD ra "mua" cô về, nên cô phải hầu hạ ông. Một bạn gái của V. kể rằng cô đã bật khóc sau một lần vô tình chứng kiến những gì ông ta thực hiện với V. qua webcam. Qua Hàn Quốc chưa được 10 ngày, không thể chịu nổi tình cảnh trên, V. ra công ty môi giới đề nghị ly dị.



Hình ảnh đám cưới Việt - Hàn thế này hay được các công ty môi giới Hàn Quốc quảng cáo


Công ty môi giới tổ chức buổi hòa giải. Ông chồng lại giở trò, tỏ ra ăn năn hối lỗi, xin vợ hãy quay về. V. chịu xuống nước, nhưng với điều kiện là ông không được "quan hệ" trong một tháng. Nhưng về nhà chưa được 3 ngày ông ta lại đòi hỏi, V. nói 3 tuần. Ông ta nói, nếu "chiều" ngay thì ông ta sẽ mua quà cho... V. không đồng ý. Cuối cùng ông ta cũng miễn cưỡng chấp nhận, nhưng nói rằng nếu không "quan hệ" ngay, thì phải ra ngồi xem tivi để ông ta thực hiện những trò sờ soạng. Khi V. tới chu kỳ của phụ nữ, ông ta chỉ cho V. nghỉ 3 ngày. V. "trả giá" phải 7 ngày. Thế là ông ta lấy lịch ra, đếm từng ngày rồi đánh dấu lên đó. Hết những ngày đánh dấu, ông ta chỉ tay lên giường ra hiệu cho V., bất kể tình cảm hai người lúc đó như thế nào.

Chưa đầy một tháng tinh thần của V. đã sa sút nghiêm trọng. Căng thẳng và tổn thương đã làm cô trầm uất. Xô xát vợ chồng xảy ra ngày càng nhiều. Có lần trong nhà bếp ông chồng sấn tới đòi bóp cổ vợ. V. hiểu cách giải thoát đời mình là cương quyết ly hôn.

Không nơi nương tựa

Công ty môi giới cố thuyết phục V., vì nếu ly hôn, họ phải có những nghĩa vụ với ông Kwon. Nhưng V. vẫn cương quyết. Cuối cùng họ tuyên bố, nếu ly hôn V. phải trả tất cả nữ trang, điện thoại, quà tặng mà chú rể đã tặng cô dâu. Họ nói, đó là theo "phong tục Hàn Quốc".

Những ngày chờ ra tòa, ông chồng không cho V. nấu ăn, không cho nghe điện thoại. V. phải sống bằng những gói mì ăn liền mà cô đem sang. Sau khi ra tòa, người chồng về nhà trước. Lúc V. về nhà thì bảo vệ chung cư không cho cô vào. Họ nói chồng cô đã đem đồ đạc của cô gửi cho họ.

Không nơi nương tựa, V. tìm đến công ty môi giới. Khi đó trời đã tối, người lái xe của công ty chở cô đi rất xa, đến nhà thờ ở một ngọn núi hoang vắng. Họ giải thích vì không có chỗ nên phải đưa cô lên đây. V. buộc phải ở lại, nhưng yêu cầu ngày mai họ phải đến đón cô, nếu không họ sẽ phải chịu trách nhiệm về những hậu quả xấu. Hôm sau, đại diện công ty môi giới quay lại.

Không tiền, không biết nhờ ai, V. yêu cầu công ty môi giới phải mua vé máy bay cho cô về Việt Nam. Phía công ty từ chối. Không còn cách nào khác, V. ngồi lì tại công ty từ sáng tới tối để buộc họ phải có trách nhiệm. Cuối cùng phía công ty bắt V. phải viết giấy cam kết là đã mượn họ 400 USD để mua vé máy bay về nước.

Quang Thi (Thanh Nien)

(*) Vì lý do cá nhân, nhân vật đề nghị không tiết lộ tên tuổi, quê quán...
http://www.thanhnien.com.vn/news/Pages/200843/20081026232417.aspx 
http://www.thanhnien.com.vn/Pages/Kieu-bao.aspx
http://tintuc.timnhanh.com/kieu_bao/20081029/35A877A6/
http://tintuc.timnhanh.com/kieu_bao/20081027/35A8747B/
http://blog.360.yahoo.com/blog-YZXWO501dKfLDUT63nO4KDiJwQ--?cq=1&p=8095
http://blog.360.yahoo.com/blog-YZXWO501dKfLDUT63nO4KDiJwQ--?cq=1&p=8076

Tái diễn bi kịch cô dâu Việt ở Hàn Quốc - Kỳ 3: Giám đốc Trung tâm hỗ trợ kết hôn nói gì?
Thứ tư, 29/10/2008




Căn nhà 36/20 đường Giải Phóng, P.4, Q.Tân Bình, nơi tập trung các cô dâu Việt của trung tâm - Ảnh: D.Đ.Minh

Xung quanh câu chuyện của V. và những thông tin V. cung cấp, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết, Giám đốc Trung tâm hỗ trợ kết hôn (xin gọi tắt là Trung tâm) để làm rõ.

Kỳ 1: Cuộc hôn nhân hãi hùng http://tintuc.timnhanh.com/kieu_bao/20081027/35A8747B/

Kỳ 2: Con đường mai mối http://tintuc.timnhanh.com/kieu_bao/20081029/35A8779D/

Tin tưởng lẫn nhau là chính

* Trước tiên, xin bà xác nhận có phải trung tâm thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ TP.HCM, liên kết với Công ty PIM (Hàn Quốc) để mai mối cô dâu Việt cho những người đàn ông Hàn?

- Không phải liên kết mà là chúng tôi hợp tác với Công ty Hàn Quốc để làm thí điểm. Khi giới thiệu cô dâu Việt với đàn ông Hàn, sẽ rất nguy hiểm nếu chúng tôi không biết rõ về nhân thân của họ. Vì vậy, chúng tôi đã xin phép Hội LHPN TP.HCM cho phép được hợp tác với một công ty Hàn Quốc để làm thí điểm. Lúc đầu cũng có nhiều công ty Hàn Quốc đặt vấn đề, nhưng chúng tôi thấy Công ty PIM có trách nhiệm và uy tín nên chọn họ.

* Cụ thể nội dung hợp tác như thế nào, bà có thể nói rõ hơn?

- Chúng tôi hợp tác dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau. Bên công ty Hàn Quốc có những người đàn ông Hàn muốn lấy vợ Việt. Ở đây chúng tôi cũng đóng vai trò tư vấn hôn nhân cho các cô gái muốn lấy chồng Hàn. Công ty Hàn Quốc sẽ gửi những thông tin cá nhân về chú rể như nghề nghiệp, độ tuổi, nhân thân có phạm pháp hay không, nhu cầu cô dâu của họ như thế nào, độ tuổi cô dâu... Dựa trên những thông tin đó chúng tôi sẽ giới thiệu họ cho những cô gái theo như yêu cầu.

* Khi liên kết với một công ty Hàn Quốc kinh doanh dịch vụ môi giới hôn nhân, bà có biết những xung đột trước đây như vụ các công ty Hàn Quốc ngang nhiên quảng cáo xúc phạm nhân phẩm phụ nữ Việt Nam; hay những bi kịch hôn nhân của cô dâu Việt trên đất Hàn như bị cách ly, đánh đập, bức tử... đều liên quan đến hoạt động môi giới hôn nhân của các công ty Hàn Quốc?




Bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết -Ảnh: D.Đ.Minh

- Tôi cũng không biết xác thực về các công ty bên Hàn Quốc, nhưng tôi nghĩ bên cạnh những công ty làm ăn không có lương tâm thì cũng có công ty làm ăn có lương tâm. Trung tâm giúp đỡ các cô gái trong việc kết hôn nhưng mình không có thông tin về chú rể thì mình cần đến họ. Thực tế trong hai năm qua thông tin của họ hầu hết đều chính xác. Mà các cô gái đến đây cũng được chúng tôi khuyến khích phải hỏi chú rể thật nhiều, thật chính xác. Khi gặp nhau nếu cả hai không ưng thuận thì chúng tôi cũng chấp nhận, không có sự ép buộc hay cưỡng ép ở đây.

Từ lúc thành lập ngày 20.10.2003 đến nay, chúng tôi chỉ giới thiệu 256 cô dâu, trong khi Lãnh sự quán Hàn Quốc tại TP.HCM mỗi tháng cấp visa cho trên 400 cô gái Việt đến Hàn định cư vì mục đích kết hôn. Con số đó đủ nói rằng sự giới thiệu của chúng tôi có chọn lọc, không dễ dàng, không phải ai cũng giới thiệu.

Vẫn làm dù biết hôn nhân không tình yêu

* Những chú rể Hàn được giới thiệu qua Trung tâm thường sang Việt Nam vào tối thứ bảy, sáng chủ nhật gặp các cô dâu và vài ngày sau là tổ chức đám cưới. Cá nhân bà có tin vào những cuộc hôn nhân quá chóng vánh như vậy?

- Thực ra các cô dâu đã biết chú rể trước đó qua webcam. Còn thời gian đó đủ có tình yêu chưa thì tôi nghĩ là chưa. Nhưng ở đây nếu các cô dâu không muốn thì họ cũng có quyền từ chối, không có có chuyện sắp đặt sẵn hay cưỡng ép. Mà sự thật ở đây cũng đã có nhiều cô từ chối như vậy.

* Việc cô dâu phải ký một bản cam kết bồi thường 40 triệu đồng nếu ly hôn trước 6 tháng, đó là một khoản tiền quá lớn so với hoàn cảnh của họ. Có những cô dâu khi gặp hoàn cảnh bị nhà chồng đối xử tệ, bị đánh đập... nhưng vì sợ không có khả năng bồi thường số tiền trên nên họ cắn răng chịu đựng, không dám ly hôn. Hôn nhân là sự tự nguyện, vậy bà có thể lý giải tại sao các cô dâu bị trói buộc bởi cam kết này?

- Tôi đồng ý hôn nhân là sự tự nguyện, ở đây cũng không phải là sự áp đặt. Còn bản cam kết đó chỉ là thủ tục, vì ở đây có những cô dâu sau khi nhận tiền rồi là... biến mất. Cam kết đó chỉ là để cô dâu có trách nhiệm, chứ từ trước đến giờ tôi có đòi ai đâu, có lấy tiền ai đâu?

* Còn chuyện có lúc có 16 cô dâu mà tiền ăn mỗi ngày chỉ phát khoảng 35 ngàn đồng khiến các cô dâu phản ứng, thực hư ra sao?

- Chuyện này tôi không biết rõ. Trung tâm chỉ tư vấn, dạy học... Còn tiền ăn, ở là do phía công ty chịu trách nhiệm. Nhưng chắc không phải như vậy đâu, tôi nhớ mỗi cô dâu mỗi ngày được khoảng 2 hay 5 ngàn đồng gì đó, tôi cũng không rõ lắm...

Qua đó rồi thì Trung tâm không biết...

* Bà có biết trường hợp cô dâu Th. do Trung tâm giới thiệu, vì bức bối với cuộc sống gia đình chồng đã tự tử hụt?

- Trường hợp Th. lúc đầu qua Hàn có khó khăn vì chồng hay ghen tuông. Tôi đã đề nghị công ty đến giải quyết và mọi chuyện đều ổn (?). Mấy ngày trước Th. có gọi về cho tôi, thấy cũng vui vẻ, nói rằng bây giờ cô ấy sướng lắm, được chồng cô yêu lắm. Còn chuyện tự tử hụt, tôi chưa nghe qua, cũng không thấy ai báo lại chuyện này với tôi.

* Còn trường hợp cô dâu V., bà có biết những chuyện cô này bị chồng đối xử thế nào hay không? Cá nhân bà cảm thấy thế nào về nhân phẩm người phụ nữ Việt Nam khi cô dâu mà Trung tâm giới thiệu đã bị đối xử không hơn một món hàng giải trí?

- Tôi không có thời gian gần gũi với cô V. nhiều nên không hiểu V., và V. cũng không tham gia những buổi tư vấn của Trung tâm để được chúng tôi hướng dẫn. Ở bên này chúng tôi đã cố gắng bảo vệ hết mình cho các cô dâu, không biến cô dâu thành những món hàng hóa. Thực tế các cô dâu ở trung tâm cũng nhận những chế độ cao hơn những nơi khác như số tiền cho gia đình nhiều hơn, được học nấu ăn, cắm hoa, tiếng Hàn...

Nhưng khi các cô dâu qua bên đó rồi thì tình hình ra sao tôi không thể biết, chỉ nghe phản ánh lại. Chuyện của V. cũng qua báo chí tôi mới nghe. Nhưng tôi nghĩ dù có chuyện gì xảy ra thì khi về, V. cũng nên đến đây để nói chuyện với chúng tôi. Tôi cũng không biết về các công ty môi giới Hàn Quốc nhiều lắm, nhưng tôi nghĩ Công ty PIM rất có trách nhiệm với trung tâm. Khi chúng tôi có yêu cầu gì thì họ hợp tác chứ không phủi tay.

Theo TNO
http://tintuc.timnhanh.com/kieu_bao/20081029/35A877A6/

CHỦ NGHĨA QUỐC GIA - CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN

ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC NGÔ QUANG KIỆT: NÓI NGAY, NÓI THẲNG, NÓI THẬT!

Lm Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh

________________________________________________________________

1. Ý nghĩa khác biệt trong chủ nghĩa quốc gia

Khi Đệ Nhị Thế chiên chấm dứt, thì chủ nghĩa quốc gia bị xét lại tại Đức Quốc. Ngay đến thời điểm hôm nay, năm 2008, người Đức vẫn còn rất ái ngại với Chủ nghĩa quốc gia. Ngay cả việc cầm cờ Đức, và chào quốc kỳ Đức không đúng lúc, đúng thời, đúng nơi, cũng có thể bị coi là thành phẩn chủ nghĩa quốc gia cực đoan, chủ nghĩa Phát xít Hitler. Chủ nghĩa Phát Xít là Chủ nghĩa Xã hội Quốc gia (Nationalsozialismus). Ai không thận trọng nêu cao chủ nghĩa Quốc gia tại đây, họ cần phải được xét lại.

Thí dụ: Nếu một nhóm thanh thiếu niên chào quốc kỳ, luôn treo cờ trước nhà, không nhằm vào dịp đấu banh quốc tế, thì dễ bị tình nghi là có chủ trương bài ngoại.

Có sự kiện mới xẩy ra trong xứ đạo chúng tôi phục vụ: Một thanh niên khoảng 22 tuổi, rất sùng đạo, siêng năng đọc kinh, xem lễ hằng ngày, và xưng tội rước lễ thường xuyên. Chỉ vì, anh ta đưa ra một vài tư tưởng yêu quê hương, phải cầu nguyện cho quê hương, thì bị ban thanh niên Quản Hạt cho rằng, anh ta thuộc khuynh hướng theo chiều hướng quốc gia qúa khích.

Chúng tôi đã tranh cãi cho anh ta, và chúng tôi đưa ra nhận xét; Anh ta hoàn toàn không có tư tưởng kỳ thị chủng tộc. Nhờ sự minh thị của chúng tôi, anh ta được phép tiếp tục sinh hoạt trong đoàn thể thanh thiếu niên trong xứ đạo.

Chúng tôi thường có dịp thăm Mỹ Quốc. Có những khu vực, người Mỹ treo cờ trước nhà, từng khu từng vùng, trông như những ngày lễ hội. Họ treo cờ suất năm tháng. Theo chúng tôi biết, chủ nghĩa quốc gia tại Mỹ, biểu dương cho Tự Do, Dân Chủ. Nhưng nếu tại Đức, người nào treo cờ trước nhà, có lẽ họ sẽ bị thiên hạ dòm ngó và chắc chắn sẽ có lời ra tiếng vào. Treo cờ Đức không vào trong những dịp lễ, có thể bị cho là thành phần Skin heat (đầu trọc).

Chủ nghĩa Quốc gia tại Đức dễ bị đồng hoá với Chủ nghĩa Phát xít, và đồng nghĩa với chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc. Và đồng thời đợm mầu sắc chủ nghĩa dân tộc chủ tính, có nghĩa, dân tộc thuộc giai cấp thống trị nhân loại!

Người Việt quốc gia, khi đề cao tinh thần quốc gia và dương cao ngọn cờ vàng ba sọc đỏ, thì họ biểu dương cho công cuộc đấu tranh đòi hỏi tự do, dân chủ nhân quyền cho con người. Chủ nghĩa người Việt quốc gia là công cuộc đấu tranh đòi hỏi nhân quyền dân chủ tự do, thiếp lập một thể chế dân chủ pháp trị đa nguyên, phi cộng sản.

Trong thời nội chiến huynh tàn (1960-1975), chủ nghĩa quốc gia là chủ thuyết chống Cộng Sản, là chủ nghĩa bảo vệ giang sơn, chủ thuyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, chủ thuyết bảo vệ quyền lợi con người.

Tại hải ngoại, chủ thuyết quốc gia luôn tiếp tục được đề cao, đưa ra làn ranh Quốc gia Cộng sản. Chủ thuyết này kêu gọi mọi tầng lớp, trong nước cũng như hải ngoại, những người yêu chuộng Công Lý, yêu chuộng lẽ phải, yêu chuộng sự thật, yêu nhân phẩm và chuộng nhân quyền, hãy đứng lên đòi lại những quyền này đã bị Cộng Sản cướp đoạt! Và hiện nay, chủ nghĩa quốc gia Việt Nam được gọi là chủ thuyết chống cộng, với mục đích nhằm đưa lại thể Chế Chính Trị Dân Chủ Nhân Bản thật sự cho dân tộc Việt Nam, với trên dưới 85 triệu dân.

2. Ý nghĩa chủ nghĩa Cộng sản

a)- Chủ nghĩa Cộng sản là một chủ nghĩa quốc tế, đồng thuận trên chủ thuyết và đồng nhất trong thực hành. Phương tiện chủ nghĩa Cộng sản là bạo lực, với chiêu bài thế giới đại đồng, mọi người như nhau, cùng chung chăn, chung chiếu, chung gường, không có giai cấp giầu nghèo. Hình ảnh một xã hội không phân biệt giai cấp chúng ta đã chứng kiến tại Trung Cộng, Bắc hàn, Bắc Việt trước 75, khi hầu hết mọi người đều mặc y phục mầu xanh: Công nhân đi làm công sở, người dân đi cầy xuống ruộng, học sinh cắp sách đến trường, đâu đâu cũng cùng mầu cùng áo, cùng quần. Chứng tỏ một xã hội không giai cấp. (Trên lý thuyết!)

b)- Chủ nghĩa Cộng sản là chủ nghĩa đại đồng: Đảng viên Cộng sản tại Đông Âu, đảng viên Cộng sản Việt Nam, đều phục quyền đảng Cộng sản quốc tế, thuộc về đảng Cộng sản Liên Xô và Trung Cộng. Đảng viên Cộng sản Đông Âu thì lệ thuộc vào đảng Cộng sản Liên Xô. Đảng viên Cộng Sản Việt Nam thì lệ thuộc cả hai, Liên Xô và Trung Cộng.

Khi nói đến một Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam, (hiện nay là Nông Đức Mạnh), trong cấu trúc của Chủ nghĩa Cộng Sản thế giới, thì đảng Cộng sản tại Việt Nam, chỉ là một phân khu của Đảng Cộng Sản quốc tế. Vì thế, sự quyết định của đảng CSVN, chỉ là một dạm thảo. Quyết định phủ quyết còn phải được đệ trình lên đảng Cộng sản quốc tế. Cộng sản Việt nam, thì hiện nay, phải đệ trình lên đảng Cộng Sản Trung Quốc. Đảng CSVN tay sai quốc tế!

Chủ nghĩa Cộng Sản Việt Nam là chủ nghĩa với chiêu bài giải phóng dân tộc. Nhưng sau cuộc chiến thương tàn vừa qua, toàn dân đã nhìn thấy rõ bộ mặt bán nước của chủ nghĩa Cộng sản.


c)- Chủ nghĩa Cộng sản Việt Nam là chủ nghĩa làm tay sai cho chủ nghĩa quốc tế, và là chủ nghĩa bán nước hại dân, chủ thuyết ngoại lai.

Chủ nghĩa Cộng sản Việt Nam đồng nhất với mọi chủ thuyết Cộng sản trên thế giới: Một chủ thuyết chính trị độc tài chuyên chính, chủ thuyết bài thị người dân cùng chủng tộc, chủ thuyết bóc lột, chủ thuyết cướp phá, chủ thuyết bội phản. Nói chung, Chủ Thuyết Cộng Sản là một chủ thuyết phản mọi nhân vị con người, một chủ thuyết đàn áp khủng bố chính dân tộc. Chúng chỉ phục vụ cho một nhóm người ích kỷ trục lợi cá nhân. Họ sẵn sàng bán nước hại dân, để mưu cầu danh lợi. Đây là chủ thuyết cực kỳ nguy hại cho sự tồn vong của cả một dân tộc, trên mọi mặt: kinh tế, quân sự và bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Ai bảo vệ người dân trong tổ quốc mình, khi Công an là dụng cụ của đảng, khi chánh án là đảng viên Cộng sản, khi quan tòa thuộc nhà nước của Cộng sản, và khi nhà nước gầy dựng bởi bạo lực quốc tế Cộng sản? Ai sẽ là người bảo vệ người dân?


d)- Chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam, cũng giống mọi chủ thuyết Cộng sản trên thế giới. Chỉ lý tưởng trên lý thuyết, nhưng hoàn toàn dối trá gian xảo trong thực hành. Chủ thuyết Cộng Sản đưa ra lý thuyết đấu tranh giai cấp, chống tư bản mại sản. Nhưng khi đảng Cộng sản dành được quyền hành trong tay, thì chính chúng lại là người bảo vệ giai cấp thống trị và giai cấp cán bộ tư bản, chúng ta gọi là giai cấp tư bản đỏ. Biến quyền lực làm giầu. Hoàn toàn lương lẹo! Chủ nghĩa Cộng sản bình thường hóa giả dối! Sự bình thường hóa gian dối trở thành đạo đức chủ nghĩa này. Vì thế, không lưu manh gian dối không là Cộng sản!


e)- Chủ nghĩa Cộng sản là chủ thuyết mị dân! Nói một đàng, làm một nẻo! Chính vì hành vi gian dối này, chủ thuyết Cộng sản tạo ra sự nghi kị và bất cẩn giữa con người với con người, bất tín giữa họ hàng bạn bè với nhau, trong cùng một xã hội.

Một khi hình thức bầu cử là hình thức lừa bịp người dân, thì chính hình thức lừa bịp giả dối này tạo ra trong toàn xã hội một guồng máy gian dối, từ trên xuống dưới. Nếu trên đã gian xảo như vậy, thì dưới cũng sẽ tạo ra những trò gian lận lường gạt dân ra sao?! Chủ nghĩa Cộng sản là “thượng bất chính”, tạo ra trong xã hội hoàn cảnh “hạ tất loạn”!

Chủ nghĩa Cộng Sản được xây dựng guồng máy chính trị trong lừa dối, thì chính guồng máy này, phải đối đầu với mọi thử thách gian lận của chính những đảng viên Cộng sản, trong cùng một guồng máy lương lẹo ba xạo gây ra. Xây dựng trong gian dối thì phải sống trong gian dối! Xây dựng trong gian dối sẽ phải gặt hái trong hậu qủa gian dối!

f)- Chủ nghĩa Cộng sản quốc tế, là chủ nghĩa xâm chiếm. Không ngạc nhiên, khi chính người Cộng sản ký những hiệp định Genever năm 1954, hiệp định chia đôi đất nước, và hiệp định Paris 1973, tôn trọng vùng đất khác biệt giữa quốc gia và Cộng Sản, tôn trọng làn ranh Quốc gia Cộng sản. Họ đã nuốt lời ký kết để xâm chiếm, giết hại chính đồng bào của mình, với chiêu bài giải phóng! Chúng ta còn nhớ năm 1977-78, khi Cộng sản xua quân chiếm Kam-bu-chia. Chủ nghĩa Cộng sản là chủ nghĩa xâm chiếm ngoại xâm, do Cộng sản quốc tế chỉ đạo.


g)- Chủ nghĩa Cộng sản là chủ nghĩa ngu dân và đói dân. Cứ nhìn qua những nước Cộng sản Đông Âu, Cu Ba, Bắc Hàn, Trung Cộng!

Không phải người Hàn quốc ngu, không phải người Đức đần độn, nhưng nếu chia dân tộc thuần chủng Đức Quốc, cùng tiếng nói mầu da, cùng phong tục tạp quán…, qua bức tường; phân chia người Hàn Quốc ra hai ranh giới, một bên theo chủ nghĩa Dân chủ tự do, bên kia Chủ nghĩa Cộng sản làm nền tảng triết lý duy nhất. Chúng ta đã nhìn ra sự khác biệt rất xa trên bình diện kinh tế, tự do và nhân phẩm con người.

Nền kinh tế phát triển khác biệt xa, khi nước Đức thống nhất năm 1990. Xe Trabi chế tạo Đông Đức phải được đưa vào viện bảo tàng, vì xe chạy qúa chậm trên xa-lộ sẽ cản trở lưu thông. Chủ nghĩa Cộng sản độc quyền chính trị, đồng thời cũng độc quyền ngôn luận báo chí truyền thanh truyền hình. Bất cứ cái gì, dù nói bóng bảy, nói dài đến đâu, mà độc quyền, thì bao giờ cũng sẽ dẫn đến tình trạng truyên truyền độc ngộ một chiều. Đó là chính sách ngu dân của chủ nghĩa Cộng sản, khi tìm mọi cách xuyên tạc, cắt xén, đàn áp và bắt bớ mọi tiếng nói trung thực, tiếng nói của lẽ phải của sự thật, tiếng nói của Công bằng Bác ái.

Ai bảo vệ cho Công lý và sự thật? Ai sẽ là nhân chứng cho sự thật? Không nhẽ VẸM bênh vực đấu tranh cho Công lý và sự thật? Nghịch lý, nghịch nhĩ!

Cũng chính vì mất đi tiếng nói này, mọi người dân trong nước bị chủ nghĩa Cộng Sản đầu độc, suy luận một chiều và đưa ra tính suy luận tương đối! (Nước ta nghèo, nhưng nước Mỹ cũng có người nghèo. Nước ta có tham nhũng hối lộ, nước Đức, nước Pháp… cũng có tham nhũng hối lộ. Lý luận theo chủ thuyết tương đối!)


h)- Chủ nghĩa Cộng sản ngu dân hóa trong mục đích dễ cai trị dân. Thà dân ngu, hơn để đảng mất quyền! Thà dân đói, hơn đề đảng nghèo! Thà dân mất hết quyền, hơn để đảng mất lợi! Đó là những chiêu thức, những chương trình cai trị dài hạn, do Chủ thuyết Cộng Sản chủ trương đưa ra.

Nói chung, Chủ nghĩa Cộng sản là chủ nghĩa không tưởng trên lý thuyết. Nhưng đồng thời, nó lại là chủ thuyết làm băng hoại mọi tầng lớp xã hội. Từ cái không tưởng trong lý thuyết, nó phải gian dối và gian manh lường gạt trong mọi lãnh vực. Để chủ nghĩa tồn tại, chúng phải dùng bạo lực và khủng bố và đồng thời phải để cho dân ngu, dân đói, dân nghèo, dân lầm than, mới cai trị được!


3. Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt: Nói ngay, nói thẳng và nói thật!

a)- Chúng ta xấu hổ là người Việt Nam, vì chưng dân tộc Việt Nam chúng ta đang bị một nhóm tập đoàn CS Mafia cai trị, với mọi hình thức chiêu bài mà chủ thuyết này có và đang áp dụng trên quê hương thân yêu Việt Nam. (Chúng tôi đã dẫn chứng ở trên!)

Là người Việt, chúng ta xấu hổ, vì dân tộc chúng ta đang bị nghèo đói hóa, gian dối hóa, đồi trụy hóa và vô đạo đức hoá, do Cộng sản gây ra. Xã Hội Việt Nam đang trên đường xuống dốc như xe không phanh, trong mọi lãnh vực: tôn giáo, văn hóa xã hội, giáo dục, kinh tế y khoa…

Đối với chúng tôi: Khi người dân oan, giáo oan, và tu sĩ oan gióng lên tiếng nói của sự thật, bênh vực cho sự thật, làm chứng cho sự thật là họ đang yêu chuộng chủ nghĩa quốc gia thật sự.


b)- Là người Việt Nam chúng ta xấu hổ, khi thấy bạo quyền ra tay đàn áp đồng bào vô tội, lập ra những toà án rừng rú, những kiểu toà án nhân dân phiên chợ, quán Càffê, nhằm xử án những chiến sĩ Dân chủ Hoà Bình anh dũng. Xấu hổ nhìn thấy người Cộng sản Việt Gian đang bóp nghẹt những tiếng nói của lương tâm, tiếng nói trung thực của lẻ phải, của sự thật, của sự công bằng.

Là người Việt Nam, chúng ta xấu hổ khi kinh tế đang rơi vào ngõ cụt, người dân đói kém cùng khổ. Xấu hổ, vì bạo quyền Cộng sản vẫn còn tuyên truyền biện hộ cho những hành vi điên rồ và những hành động lưu manh côn đồ cướp phá của chúng. Xấu hổ cho dân tộc đang đau thương quằn quại dưới sự cai trị độc tài gian manh của chế độ vô thần ngoại lai Hán Ngụy.

Là người Việt chúng ta xấu hổ, vì chính những cán bộ, và con em cán bộ Cộng sản đã và đang chuyển tiền ra hải ngoại, rửa tiền ăn cướp và rửa tiền tham những hối lộ. Chính họ sẽ là những kẻ chạy trốn khỏi Việt Nam, khi dân tộc Việt nam chúng ta thật sự có dân chủ tự do thật sự.


Đức TGM Ngô Quang Kiệt đã nói ngay, nói thẳng, nói thật, nói vào mặt những kẻ gian manh rằng, chủ nghĩa Cộng sản là chủ nghĩa hại dân, hại nước. Chúng tôi xấu hổ thế đấy, còn các anh hãnh diện với những mưu mô qủy quyệt, đưa cả dân tộc suy tồn và diệt vong ư?!

Cái dũng của kẽ sĩ là nói ngay, nói thẳng, nói thật! Nói có “mất lòng” người nghe, nhưng chắc chắn sẽ “dã tật”! Nói cho họ nghe, nói cho họ hiểu, nói cho họ biết, nói cho họ suy nghĩ đâu là sự thật! Chưa nghe, chưa hiểu, chưa biết, thì nói nữa, nói dai nói dài nói mãi, nói lên tiếng nói của sự thật, tiếng nói của lương tâm! Sự thật là gì, lương tâm là gì!? Nói để người Cộng Sản không còn trốn lé được sự thật! Người CS sợ sự thật không?!

Xấu hổ qúa đi chứ, tại sao không?



4. Chủ Thuyết tự hào dân tộc, thay lời kết

a) Chủ nghĩa Quốc gia và chủ nghĩa Cộng sản

Chủ nghĩa Quốc gia (Nationalismus) khác với chủ nghĩa quốc gia xã hội chủ nghĩa (Nationalsozialismus) của người Cộng Sản. Khi người quốc gia nói yêu nước, là họ nói đến sự yêu chuộng Tự do Dân chủ Nhân quyền thật sự. Khi họ yêu nước là họ muốn thật sự đem sự bình an, công bằng, ấm no hạnh phúc, thịnh vượng cho người dân, cho đồng bào.

Nhưng khi người Cộng sản nói yêu nước, là họ xuyên tạc, đồng hoá với tất cả những gì của chủ thuyết đó đưa lại: bạo lực, độc tài, tham nhũng, giả dối, lưu manh côn đồ, cướp phá, bán nước dâng biển cho ngoại bang. Vì người Cộng sản bắt toàn dân tộc yêu nước là phải yêu xã hội chủ nghĩa. Đó là chủ thuyết Quốc Gia Xã Hội Chủ Nghĩa (Nationalsozialismus) người Cộng Sản!



b)- Người Cộng Sản tự hào? Họ tự hào về cái gì?

Khi nói đến yêu nước, theo Chủ Nghĩa Quốc Gia hiện nay tại Việt Nam, là chúng ta nói đến yêu Chủ nghĩa xã hội. Họ yêu nước, đồng nghĩa với yêu chủ nghĩa Cộng sản, yêu tất cả mọi tệ nạn gian manh bất nhân hung bạo chủ thuyết đưa ra. Vì thế, khi người Cộng sản đòi tự hào dân tộc, là họ đồng hóa toàn dân tộc trong gọng kìm kẹp độc tài độc đoán, độc tôn và độc ngôn của họ.



Là người Việt Nam, chúng ta hãnh diện yêu chủ nghĩa Cộng sản??? Thế Cộng Sản yêu nước, yêu dân tộc, yêu đồng bào quê hương?!! Hmmm!

Người Việt Cộng, Việt Gian Cộng Sản, những kẻ đánh đổi lương tâm làm tay sai cho Cộng sản quốc tế, hãnh diện, khi đất nước nghèo đói lâm nguy, họ vẫn vững tâm, vì tiền bạc đã nằm trong những Ngân Hàng Quốc Tế, họ đã mua nhà mua đất tại hải ngoại.

Người Cộng sản hãnh diện, họ sẽ là những người trốn khỏi đất nước, khi đất nước thật sự có tự do dân chủ. Sống chết mặc bay! Rồi đây, toàn thể dân tộc hãy làm chứng!!

Cộng sản hãnh diện là người Việt. Nhưng họ chuyển tiền hối lộ tham nhũng ra hải ngoại. Họ hãnh diện là nguời Việt, vì họ có đủ chiêu thức, có đủ thủ chiêu bần cùng hóa giòng giống dân Lạc Hồng hùng dũng anh kiệt.


c)- Người quốc gia xấu hổ. Họ xấu hổ về cái gì?

Hằng triêu đồng bào chúng ta trên toàn thế giới mang quốc tịch bản xứ, nơi họ cư trú. Họ tiếp nhận quốc tịch mới, nhưng họ không từ bỏ tinh thần quốc gia chống cộng, hầu mong đem lại bình an, tự do bình an ấm no hạnh phúc cho 85 triệu dân đồng bào thân yêu trong nước. Họ nhập quốc tịch sở tại, vì họ xấu hổ, không phải bị đồng hóa với chủ nghĩa Cộng sản. Họ xấu hổ phải đồng nhất với bản chất người Cộng sản. Họ nhập tịch mới để phản đối không chịu để người Cộng sản “cai trị” họ tại hải ngoại.

Họ đấu tranh chống cộng, để cầu mong đem lại ấm no thịnh vượng cho toàn dân. Nhưng đối với bản thân thì họ không cần, vì cuộc sống đầy đủ của họ tại hải ngoại. Họ đấu tranh cho ai?


Họ mang quốc tịch mới, nhưng không phản bội đồng bào trong nước. Còn những kẻ mạo danh yêu nước, lại chính là những kẻ ám hại đồng bào, bán đất bán biển cho ngoại xâm! Đó là hình thức “kiểu yêu nước thương nòi” của người Cộng Sản! Hậu qủa của chủ thuyết Cộng sản!

Người quốc gia chân chính mang quốc tịch Mỹ, Đức, Pháp, Bỉ, Hòa Lan, Đa-mach, Na-uy, Canađa, Úc… nhưng họ đấu tranh đòi hỏi Công Lý và Hòa bình cho đồng bào trong nước. Họ đòi lẽ phải sự thật, đòi dân chủ nhân quyền cho toàn dân tộc Việt Nam.

Còn những người Cộng sản gian manh xảo trá hại dân hại nước, bán đất bán dân, họ hãnh diện những thành tích bất nhân của mình. Họ hãnh diện vì đang xỏ mũi được 85 triệu người dân. Họ hãnh diện vì đang lường gạt được người dân. Họ hãnh diện vì đang gian manh xảo trá cướp nhà cướp dất người dân, cướp của giáo hội. Họ hãnh diện vì cướp đất phá nhà phá cửa. Họ hãnh diện vì đang cho người dân ăn “cây leo” (leo cây).

Người tị nạn cộng sản xấu hổ mình là người Việt, nhưng họ vẫn cong lưng đi cầy tám tiếng mỗi ngày, nhịn ăn nhịn uống để giúp đồng bào anh em họ hàng trong nước. Họ xấu hổ là người Việt, nhưng họ cứu trợ đồng bào trong những lúc lụt lội đói kém, trong những cảnh màn trời chiếu đất, do chủ nghĩa Cộng sản bất nhân gây ra.

Người tị nạn cộng sản xấu hổ là người Việt, nên họ phải can đảm đứng lên, ăn cơm nhà vác ngà voi, hủy hỏ chế độ hút máu người dân của Chủ Nghĩa Cộng Sản! Họ phải đòi công lý, đòi tự do, đòi nhân phẩm nhân quyền đã và đang bị mất, bị tuớc đoạt vì chế độ vô nhân Cộng Sản. Đó là quyền CON NGƯỜI, chứ không phải quyền nhà nước CHO mà phải XIN!

Người yêu chuộng tự do, tôn trọng nhân phẩm con người xấu hổ là người Việt Nam, vì vậy, họ đang dấn thân chống lại chế độ lưu manh gian ác Cộng Sản.

Nhân dân, và toàn thể đồng bào trong nước, cũng như hải ngoại xấu hổ là người Việt, vì họ đang đau khổ phải nhìn cảnh tượng chế độ gian tà Cộng sản thống trị trên đất nước thân yêu Việt Nam.


Toàn dân tộc Việt Nam chỉ mới thật sự hãnh diện là người Việt, khi họ xua đuổi được chế độ hung thần Cộng sản biến khỏi trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta.


Toàn thể nhân dân thật sự hãnh diện là người Việt, khi đồng bào được sống trong một thể chế nhân bản biết tôn trọng nhân phẩm nhân quyền và tự do của con người và của người dân.


Rồi đây, toàn dân tộc sẽ hãnh diện, khi thấy chủ nghĩa Cộng sản khuất bóng trên quê hương thân yêu Việt Nam của chúng ta. Sẽ là một đại hồng phúc cho dân tộc Việt Nam!

Cầu chúc toàn thể dân tộc Việt Nam mong chóng đạt được nguyện vọng giờ phút linh thiêng của lịch sử: Lịch sử Việt Nam thoát được ách Cộng sản gian manh độc tài vô thần!

(Đức Quốc, ngày 30 tháng 10 năm 2008)

Xã Hội Vn: Từ Phân Tầng Đến Phân Rã - Cần Một Hướng Đi

Kinh Trực

Trong vài năm trở lại đây, khi mà các phương tiện thông tin của chính phủ cộng sản liên tục đưa ra những con số hấp dẫn và lạc quan về đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân Việt Nam thì cũng chính là lúc mỗi người buộc phải nhìn lại đời sống của chính mình, nhìn lại những người chung quanh mình. Thực ra, những con số, những thông tin mà người dân nhận được trong mỗi chương trình thời sự từ các phương tiện truyền thông của chính phủ không đủ sức thuyết phục họ, bởi chính cuộc sống cơm áo gạo tiền và những gì họ phải nếm trải hằng ngày đã cho họ một cái nhìn khác. Một cái nhìn về sự phân tầng mỗi lúc một rõ rệt đang đe dọa đến số phận của họ và mang lại một linh cảm không an lành về vận mệnh đất nước. Báo hiệu một sự phân rã…

Sở dĩ tôi không dùng những chữ nào khác ít trầm trọng hơn hai chữ “phân tầng” vì hiện trạng Việt Nam bây giờ cũng chẳng có chữ nào chính xác hơn để diễn tả. Sự phân tầng hiện ra rõ rệt, từ chuyện nhỏ nhất cho đến những hiện tượng mang tầm vóc vĩ mô, từ những đơn vị địa lý nhỏ cho đến những khu vực rộng lớn, từ giới lao động phổ thông cho đến giới lao động tri thức… Tất cả đều biểu hiện một bộ mặt rạn rách[1] và phân chia tầng bậc một cách thiếu lương tri, khoa học.

Những phân tích trên sẽ được công nhận sau những con số đủ sức thuyết phục để chứng minh và chỉ rõ nguyên nhân cũng như hậu quả của nó.

1.

Hiện trạng và những con số (đương nhiên đây là số liệu tham khảo từ những tổ chức có uy tín và đã được người viết đi xác minh thực tế thông qua những cuộc điều tra, dã ngoại, du lịch và tìm hiểu):

- Dân số Việt Nam xấp xỉ 85 triệu người, trong đó có 60% làm nông (con số này được lấy từ Bộ Lao động Thương Binh và Xã hội Việt Nam, trên thực tế không dừng ở con số này, có thể lên đến 70%) và thu nhập không quá 1.300.000đồng/người/năm.

- Số người lao động chất xám chiếm 20% (con số này cũng được lấy từ nguồn trên, thực tế số phần trăm đạt đủ chất lượng để xếp vào hàng trí thức rất ít, bởi những cán bộ cộng sản cũng chen vào danh sách, họ đang công tác lẫn lộn trong đội ngũ này với nhiều mục đích khác do cấp trên chỉ đạo).

- Số tư thương chiếm 15% dân số.

- Số người thất nghiệp chiếm 25% dân số (con số này cũng được lấy từ nguồn BLĐTBXH)

- Số người đang ở độ tuổi đi học, chưa thể lao động được chiếm 35% dân số.

- Số người làm nhiều nghề, lao động thời vụ chiếm 40% dân số

Nếu cộng tất cả những thành phần vừa kể trên lại ta sẽ có được con số 205%. Điều này chứng tỏ rằng sự phân bố lao động còn rất mờ nhạt và chưa có trật tự nào, đã xảy ra sự chồng chéo trong các thành phần, lĩnh vực kinh tế tại Việt nam.

2.

Sự phân tầng trong đời sống Việt Nam:

- 70% tổng số nông dân có thu nhập về nông nghiệp dưới mức tối thiểu, không quá 700.000đồng/người/năm bởi giá lúa gạo tăng (15 - 55%) không kịp bù cho giá phân bón và thuốc trừ sâu (tăng 80 - 100%). Cuối cùng nợ vẫn hoàn nợ, nguy cơ mất đất, mất nhà, chuyển sang nghề khác, làm thuê làm mướn là khó tránh.

- 30% tổng số nông dân từ bỏ ruộng đồng lên thành phố bán vé số hoặc đi làm thuê, lao động phổ thông, được chăng hay chớ…

- 50% tư thương luôn khai thác nguồn lao động phổ thông một cách rẻ mạt.

- 30% tư thương có mức thu nhập khá cao (không thể kiểm soát) chuyên bóc lột sức lao động từ thành phần nghèo khó, không còn chỗ dung thân, bị nợ nần rượt đuổi…

- 18% tư thương có tinh thần chia sẻ, thông cảm nhưng vẫn chỉ dừng ở mức nhằm phổ biến thương hiệu của họ với đại chúng.

- 2% tư thương là những nhà hảo tâm. Tuy nhiên thành phần này có nguy cơ phá sản…

Trong khi đó:

- Mức thu nhập thực của phần lớn cán bộ nhà nước (là đảng viên cao cấp của Đảng Cộng sản) luôn cao gấp vài chục lần các thương gia hạng trung và thậm chí có người còn có mức thu cao đến vài ngàn, vài trăm ngàn lần người bình thường. Cho dù sức lao động (xét trên cả hai mặt: cơ bắp và chất xám) họ bỏ ra còn kém xa những người kia.

- Những vụ tham nhũng gây chấn động dư luận trong nước và thế giới thường là do những cán bộ uy tín của Đảng gây nên và có con số rất cao, đủ làm cho người ta liên tưởng đến sự kiệt quệ của nền kinh tế quốc gia và sự lũng đoạn của ngân hàng (vụ PMU 18, Đông tây…).

- Thái độ cửa quyền, hách dịch và thô lỗ của các cán bộ nhà nước xảy ra thường xuyên đối với nhân dân.

- Khoản nợ chính phủ vay nước ngoài (bằng cách thế chấp danh dự quốc gia) lên quá cao, tỉ lệ với sự hư hỏng, tiêu xài trác táng của các cán bộ cao cấp cùng gia đình (mà trong đó con cái họ là nổi cộm).

- Những khoản tiền nhân dân phải đóng ngày càng phình to ra như thuế dịch vụ, thuế giao thông (đây là khoản gây nhức nhối và bất bình nhiều nhất, có trung bình 3 trạm thu phí giao thông/100km đường/toàn quốc. Có nơi lên đến 4 - 5 trạm như đoạn đường Bình Phước - Bình Dương - Sài Gòn dài chưa đến 100km đã có 5 trạm thu phí.) và nhiều thứ thuế khác khiến những người có thu nhập thấp trở nên khốn đốn, sống co cụm…

Về phía người dân:

- Những nông dân nghèo, hoặc không đủ sức lao động tìm lên thành phố làm thuê, làm ôsin, bán vé số… Mức thu nhập ròng của họ khoảng 700.000đồng/tháng. Đời sống vật chất thấp, đời sống tinh thần gần như zero.

- Những sinh viên tốt nghiệp, ra trường không có môi trường làm việc đàng hoàng, không có cơ hội cống hiến. Chuyển sang làm việc cho tư nhân với mức lương tương đối cao (so với lương nhà nước mà trước khi làm việc họ phải bỏ ra một khoản tiền lót đường…) nhưng phần lớn đây lại là những doanh nghiệp làm ăn bất chính, có động cơ móc nối với các quan chức cao cấp để thu lợi 1 cách không rõ ràng. Đó cũng chính là hành vi gián tiếp gây khủng hoảng kinh tế cục bộ vì phần lớn công việc họ làm tiếp tay cho những thủ đoạn thao túng, độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh và tiếp tay cho nhà nước độc tài.

- Những trí thức có quan điểm tiến bộ thường bị nhà nước chèn ép, đùn đẩy vào những công việc, trách nhiệm trái với khả năng của họ.

- Lực lượng công nhân (lực lượng nòng cốt, tiên phong của Đảng Cộng sản, của giai cấp vô sản) là những người có thu nhập và đời sống tinh thần thấp vào bậc nhất trong xã hội. Ngoài ra, họ còn chịu những khốn khổ, áp chế từ phía chủ doanh nghiệp nên họ thường bất mãn và tổ chức đình công, biểu tình… Nhưng kết quả vẫn không mấy tốt đẹp cho họ.

Những tổ chức, hội đoàn:

- Tổ chức Công Đoàn là một tổ chức lớn và duy nhất của giai cấp công nhân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam bảo trợ thành lập nhưng lại đứng về phía Nhà nước Việt Nam và các chủ doanh nghiệp. Họ không nói lên được những bức xúc của giai cấp công nhân và thường thì toa rập với chủ doanh nghiệp để thương lượng, dập tắt các cuộc đình công, biểu tình nhằm đòi hỏi những quyền lợi chính đáng của công nhân. Công đoàn không đứng về phía công nhân.

- Các tổ chức, hội đoàn khác như Hội Liện hiệp Văn học nghệ thuật, Hội nhà văn, Hội nhà báo, Hội nhạc sĩ, Hội Nông dân, Hội Người cao tuổi, Hội Bảo thọ… đều được thành lập dưới sự bảo trợ của Nhà nước Cộng sản và hoạt động theo những tiêu chí Nhà nước đề ra nên không mang lại hiệu quả thiết thực nào cho người dân, nhà báo, văn nghệ sĩ… một cách đáng kể và phần lớn là hoạt động trì trệ, thu phí mờ ám, gây bất bình trong nhân dân.

- Các tổ chức tôn giáo hoạt động chịu sức ép từ phía Nhà nước Cộng sản. Mọi hoạt động của họ chịu sự khống chế của Nhà nước. Trong một số trường hợp, những thành viên cấp cao của ác tổ chức Tôn giáo là người của công an. Và những hoạt động tâm linh của tôn giáo chịu sự quan sát, điều hành của Bộ Công an, trở nên giả tạo, mị dân. Những tổ chức Tôn giáo có tính độc lập thường bị nhà nước chèn ép, khủng bố (điển hình như các trường hợp: Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Phật giáo Hòa hảo, Tin lành Đê ga…).

3.

Nguyên nhân:

- Pháp luật Việt Nam được soạn thảo nhằm bảo vệ những quyền lợi, củng cố sức mạnh cho Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Nhà nước Việt nam là một nhà nước phi Pháp quyền.

- Nền giáo dục một chiều, nặng tính tuyên truyền của Nhà nước Cộng sản đã bóp méo suy nghĩ của người dân, nhồi sọ và tẩy não họ, biến họ thành một cộng đồng động vật tuân thủ, ít có cơ hội để nhận chân đời sống, phản tỉnh bản thân.

- Tâm lý hậu thuộc địa là căn bệnh trầm kha của dân tộc. Nó khiến con người tự thấy mình thấp cổ bé họng, không dám lên tiếng đòi hỏi những quyền lợi tối thiểu của mình. Trong một số trường hợp, người dân chưa nhận thức được đâu là quyền lợi của mình.

- Để bảo vệ quyền lợi và củng cố sức mạnh của mình, Nhà nước Cộng sản Việt Nam sẵn sàng thực hiện chính sách ngu dân, bán đứng danh dự dân tộc, bán đứng lãnh thổ quốc gia (Trường Sa, Hoàng Sa, biên giới Việt - Trung phía Bắc đất nước, cột mốc Ải Nam Quan…) cho Trung Quốc để được Nhà nước Cộng sản Trung Quốc che chở, bảo hộ…

4.

Hậu quả:

- Những cán bộ nắm quyền lực nhà nước trong tay tha hồ hạch sách, vơ vét của nhân dân. Trên mọi phương diện, lĩnh vực.

- Nạn tham nhũng xuất hiện với tầng suất, mật độ ngày càng dày đặc.

- Cơ hội cho những trí thức yêu nước và có tinh thần độc lập bị triệt tiêu hoàn toàn.

- Nạn phe nhóm trong nội bộ Nhà nước Cộng sản mỗi lúc một tăng cao.

- Đời sống nhân dân bị tụt hậu.

- Những người nghèo bị đẩy vào một góc khuất của xã hội. Họ không có cơ hội vượt thắng số phận bởi vì khoản thu nhập của họ không đủ trang trải cho chuyện ăn, mặc, ở.. hằng ngày.

- Những người lao động nghèo khom lưng làm giàu cho Nhà nước, mà nhà nước cộng sản thì không phải của dân, do dân và vì dân mà chỉ là sở hữu của 1 số ông, bà chủ mà thôi.

- Những công nhân không đủ sống. Nhiều sinh viên bỏ học, nếu là nữ tham gia dịch vụ gái gọi, là nam thì lao động phổ thông như phụ hồ, làm thợ xây, tham gia các hoạt động phi pháp, các tổ chức xã hội đen... Ngoài ra, một số sinh viên khác ban ngày đi học, buổi tối làm ở quán bia ôm…

- Nông dân bỏ ruộng vì giá lúa tăng không kịp những vật giá khác, sinh nợ nần.

Điều này dẫn đến hiện tượng:

- Nhân dân mất niềm tin vào chính phủ.

- Những kẻ cơ hội có chút quyền lực nhà nước trong tay tha hồ tác oai tác quái và cố gắng vơ càng nhiều càng tốt để xây dựng cơ ngơi, ra nước ngoài mua đất, mở tài khoản ở ngân hàng nước ngoài phòng khi có biến cố…

- Thành phần trí thức bất bình Nhà nước.

- Giới báo chí bị bịt miệng từ trứng nước hòng che lấp những khuyết điểm của Nhà nước, của Đảng. Phiên tòa xét xử hai nhà báo Nguyễn Việt Chiến và Nguyễn Văn Hải cùng hai sĩ quan cấp cao thuộc Bộ Công an Việt Nam là những ví dụ điển hình vấn đề này.

- Sự phân tầng xã hội mỗi lúc một sâu sắc,những người dân nghèo chịu một đời sống u tối, thành phần có dây mơ rễ má, có quan hệ tốt với Đảng Cộng sản Việt Nam được hưởng một đời sống dư thừa, trác táng.

- Nhân dân trông chờ vào một phép màu làm thay đổi cuộc đời họ theo chiều hướng tốt hơn.

Và, khi mọi hiện tượng, mọi biến chứng của xã hội phát triển theo chiều xấu đi, đương nhiên kéo theo hệ quả lịch sử của nó. Những biến động về chính trị, thái độ chính trị của Nhà nước Cộng sản đối với kẻ xâm hại lãnh thổ, đối với nhân dân giống như giọt nước cuối cùng làm tràn vỡ chiếc ly vốn mong manh và được làm từ thứ vật liệu dễ vỡ, thứ vật liệu độc tài, giả nhân đạo và phi nhân tính. Sự phân tầng trong xã hội Việt Nam không dừng lại ở mức vạch ra ranh giới kẻ giàu người nghèo, kẻ sang người hèn, kẻ quyền lực người thấp cổ bé họng mà còn tạo ra những vết rạn nứt tâm lý xã hội, khiến cho mâu thuẫn xã hội ngày càng thêm căng thẳng. Đòi hỏi một hướng giải quyết.

5. Phương hướng:

- Những người trí thức yêu nước, có tinh thần tự do, tôn trọng nền dân chủ, pháp trị nên bắt tay nhau, tùy vào tình hình thực tiễn, tùy vào khả năng hiện tại mà vận động, kêu gọi những người cùng chí hướng cùng bắt tay xây dựng kế hoạch cho một nền dân chủ tương lai.

- Phải nhận thức rõ mức độ quan trọng của việc thay đổi chế độ độc tài Cộng sản thành một nhà nước mở - đa nguyên, đa đảng, lấy tinh thần tự do, dân chủ và pháp lý làm định hướng hoạt động.

- Kêu gọi những người tài, vận động những nhà hảo tâm yêu nước cùng chung tay xây dựng đất nước vững mạnh.

- Lấy tinh thần bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ những gì ông cha để lại cho con cháu làm đầu, tuyệt đối không tuân phục Đảng Cộng sản Trung Quốc.

- Điều hòa tất cả các mối quan hệ từ kinh tế, chính trị, quân sự đến văn hóa với Mĩ và các nước phương Tây nhằm tạo ra thế mạnh đối ngoại cho Việt Nam để xác lập một Nhà nước có chủ quyền, lãnh thổ và biên giới, hải đảo trước những nước có tham vọng xâm lăng Việt Nam.

- Xây dựng một nền giáo dục mở, tuyệt đối không lấy tuyên truyền, nhồi sọ làm chủ trương, làm “kim chỉ Nam” như nhà nước độc tài Cộng sản đang làm. Giảm bớt độ căng giờ học cho học sinh, sinh viên, lấy tinh thần khoa học sinh động và sáng tạo làm tiêu chí giáo dục.

- Nâng cao mức an sinh xã hội, giảm thuế nông nghiệp & tăng cường hỗ trợ các lĩnh vực liên quan đến Nông nghiệp.

- Xây dựng một kế hoạch cụ thể cho vấn đề thay đổi và tiếp quản Nhà nước, phục vụ dân sinh. (…).

Trên đây là những ý kiến chưa đầy đủ, chờ sự đồng thuận, góp ý và cùng hành động từ phía những người bạn cùng có chung tinh thần yêu nước, yêu tự do, yêu sự thật, yêu một nền dân chủ và yêu dòng máu Việt đã có hơn mấy ngàn năm chịu cảnh lầm than, tủi nhục vẫn đang tiếp tục nếm trải những bất công từ chế độ Cộng sản độc tài. Tôi tin rằng một người không làm gì được, nhưng khi có hai người sẽ có bốn người, tám người, nhiều người… sẽ cùng chúng ta làm nên vận hội, thay đổi số phận cho chính mình và cho dân tộc, cho cộng đồng, cho tương lai con cháu mai sau.

Chú thích:

[1] ý nói đã vượt quá sự rạn nứt

(Nguồn: Vietnam Freedom Institute)

TÌM HIỂU SỰ THẬT VỀ HỒ C.M TRONG CUỘC CHIẾN ÐÔNG DƯƠNG II

SAU BA MƯƠI NĂM QUỐC HẬN, TÌM HIỂU SỰ THẬT VỀ HỒ C.M TRONG CUỘC CHIẾN ÐÔNG DƯƠNG II (1955-1975)

MƯỜNG GIANG



Một năm sau ngày miền Nam bị cưởng chiếm, phái đoàn Bắc Việt do Trường Chinh đại diện và Ðảng Bộ Việt Cộng miền nam tức Mặt Trận Giải Phóng MN, dưới quyền Phạm Hùng, đã chính thức họp tại Sài Gòn, để khai tử cái Mặt Trận “ MA “, được Hà Nội dàn dựng và khai sinh từ ngày 20-12-1960, nhằm lường gạt dư luận thế giới và dân chúng trong nước, qua âm mưu thôn tính VNCH. Cũng từ đó (1976), cái gọi là con đường huyền thoại dm Hồ Chí Minh, tức đường mòn Trường Sơn với bí danh 559A, hành lang để Hà Nội chuyển tiếp liệu, quân dụng và người vào Nam, từ năm 1959 tới ngày 30-4-1975, cũng bị đảng nhận chìm trong quên lãng.

Bắt đầu từ năm 1989 tới 1991, đã có nhiều biến cố chính trị quan trọng xảy ra tại Ðông Âu. Ðó là việc các nước chư hầu, lần lượt từ bỏ xã hội chủ nghĩa, kéo theo sự sụp đổ và tan rã của Liên Bang Sô Viết. Ðể cứu đảng khi đã mất cái dù che của Nga, Việt Cộng lại ngả về Tàu, đồng thời mở khẩu đổi mới, trải thảm đỏ, mời Hoa Kỳ, Nhật và Tây Phương vào làm ăn buôn bán. Nhờ vậy lớp son phấn che kín bản mặt thật của đảng, dần hồi bị xói mòn, bởi các tệ trạng tham nhũng, cướp bóc nơi cửa quyền và nhất là sự kiện đảng công khai bán nước cho ngoại bang, hèn nhục để cho dân mình bị Tàu Cộng bắn giết trên biển mới xảy ra vào tháng 1-2005, đã làm cho cả nước không còn hãi sợ và tin Việt Cộng, kể cả một số không ít trí thức khoa bảng NamVN trước đây, từng tin đảng là chính nghĩa, làm cách mạng chỉ để giải phóng đất nước bị Mỹ-Ngụy kềm kẹp bóc lột.

Ðể bảo vệ đảng cũng như quyền lợi của chóp bu đang hồi tiến nhanh tiến mạnh, Hà Nội lai lùi một bước, quay về với chiến lược cũ rích năm nào. Ðó là dùng lịch sử để lường gạt đồng bào và việt kiều thêm lần nửa. Ðảng đem những huyền thoại trên trời dưới biển năm nao, ra hâm nóng lại tinh thần yêu nước là “ yêu nước xã hội chủ nghĩa “ của cán bộ đảng viên, đang bị phân hoá lung lay niềm tin tới tận gốc, vì dành ăn, tranh quyền và ganh tị lẫn nhau bởi “ trâu cột ghét trâu ăn “. Ngoài ra, đảng cho trùng tu lại các di tích chiến tranh, như Ðịa đạo Vĩnh Mốc (Vĩnh Linh-Quảng Trị), Củ Chi (Hậu Nghĩa), cũng như tái tạo lại con đường mòn Hồ Chí Minh. Công tác trên vừa có tính cách xoa dịu tự ái của những đảng vỉên bộ đội già bị vắt chanh bỏ võ, sau khi tàn chinh chiến. Ðồng thời lần nữa lừa bịp cũng như móc túi bọn du khách ngoại quốc, trong đó có không ít Việt Kiều trí thức Miền Nam ngày xưa trốn quân dịch, nên có bao giờ biết cũng như nếm được mùi chiến tranh bom đạn, và đám da trắng giàu có đa sự. Bọn này rất muốn biết và nhìn tận mắt con đường mà Hoa Kỳ, nói là đã oanh tạc một số bom đạn, nhiều hơn số lượng đả sử dụng trong thời đệ nhi thế chiến nhưng vẫn không ngăn nổi người và quân dụng Bắc Việt vào Nam.

Việc đẻ ra kế hoạch “ mười năm du lịch “ 1995-2005 “ của Võ văn Kiệt tại nghị định số 307 ngày 24-5-1995, cũng là một trong những sự sao y bản chánh của Trung Cộng, vì thấy Ðặng tiểu Bình đã thành công, khi xây dựng các khu du lịch và công nghiệp tại Thẩm Quyến, Hải Nam, Thượng Hải.. Từ đó Hà Nội đã bất chấp thực tế, vẫn hồng hơn chuyên, bỏ hằng tỷ bạc ngân sách quốc gia, để xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất và thành phố Vạn Tưởng, tại Quảng Tín-Quảng Ngãi, trước sự mai mỉa cười chê của thế giới. Khắp nước nơi nào cũng tổ chức các tour du lịch, để hốt bạc và tuyên truyền bộ mặt son phấn mới của VN xã nghĩa. Ngay chốn khỉ ho cò gáy như miền giới tuyến năm nào trong tỉnh Quảng Trị, cũng có một tour du lịch, từ Cửa Việt lên tới Khe Sanh, Tà Cơn, Cầu Treo DakRong, ngã ba QL9 và đường mòn HCM, gọi là The Demilitarized zone tour, thường viết tắt là D.M.Z. Mục đích để đảng quảng cáo các chiến lợi phẩm thời chiến tranh và cái gọi là nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, mà theo thân nhân của người quá cố, trong hòm chỉ có cát-đất mà thôi.

Có đọc trường thiên ký sự “ Ðường đi không tới “ của nhà văn VC hồi chánh là Xuân Vũ, hay đã làm lính VNCH, mới cảm nhận được cái ý vị khổ nhục cùng tận của cuộc chiến Ðông Dương lần 2 (1955-1975), do Ðệ tam quốc tế cọng sản chủ xướng, qua vai trò tên lính tiền phương đánh mướn là Việt Cộng. Trong cuộc chiến vô nghĩa phi lý này, mặt trận tại Trường Sơn, đã là mồ chôn hằng vạn tử sĩ của cả hai phía. Những địa danh như Dốc pháo cụt, Ðồi không tên, Sông A-Vương, Lũng Giằng, Khe Sanh, Dakto, A-Shau, Ia-Drang, Pleime, Ðức Cơ.. ra tận miền Bắc, càng lúc càng trở nên khốc liệt, khi nó chính thức trở thành con đường chiến lược để Bắc Việt xâm lăng VNCH. Suốt thời gian chiến tranh, Võ Nguyên Giáp qua tư cách Ðại Tướng tổng tư lệnh quân đội VC, đã từng tuyên bố với báo chí quốc tế, là hắn sẽ đốt rụi Trường Sơn, dù phải đem giết hết thanh niên nam nữ miền bắc. Cho nên không lạ khi thấy Xuân Vũ nói “ mạng người lá rụng “, để viết về thảm kịch Ðường Ði Không Tới, của một số cán binh bộ đội hồi kết năm nào.

Tháng 11-1997, Võ nguyên Giáp khoe thành tích Bát Quái Ðồ, tức là đường Trường Sơn 559, do Ðinh Ðức Thiện và Ðồng Sĩ Nguyên lần lượt chỉ huy suốt cuộc chiến từ 1960-1975. Ngày xưa thế giới đui mù vì bị bọn trí thức khoa bảng, cha-sư, miền nam tuyên truyền lật lọng, nên chẳng bao giờ thấy được hình ảnh bộ đội cọng sản “ sinh bắc tử nam “, khi ồ ạt vượt vĩ tuyến 17, vào đường mòn HCM, để tấn công cưỡng chiếm Miền Nam thanh bình no ấm, như họ đã thấy tại bán đảo Triều Tiên, vào tháng 6-1950, qua cuộc chiến Cao Ly. Nhưng biết sớm hay muộn cũng giống nhau, vì ngày nay trên khắp nẻo đường Trường Sơn năm củ, từ Bắc Việt vào tới Phước-Bình Long, hằng ngày đã có hằng vạn nguời Việt , đói rách bị chĩa súng có gắn mã tấu sau lưng, để bắt họ làm nghĩa vụ lao động. Cũng qua cái hình ảnh đau thương này, đã làm cho mọi người trong cuộc của cả hai phía, chợt nhớ tới những cô gái Trường Sơn năm nào, luôn mỏi ngóng các chàng lính trận có lần đã đi vào con tim của họ. Ðể rồi từ đó tới nay, tuổi xuân tháp cánh lưng trời, mà bóng ai vẫn biền biệt, như cái huyền thoại Trường Sơn, thật sự đã chết trong tâm tư đồng bào sơn cước, khi họ bị VC cướp đất, lừa bịp.. sau khi đất nước đã có hòa bình.

“ mai về quê mẹ, lên biên giới

thăm lại Trường Sơn thuở kiếm cung

rừng núi vẫn xanh màu khát vọng

chỉ ta hờn tủi, kiếp tha hương ..”



1- Bối cảnh lịch sử có liên quan tới chiến cuộc Ðông Dương lần thứ 2 (1955-1975) :

Ngày 7-5-1954 Ðiện Biên Phủ thất thủ, nước VN tạm thời bị chia cắt thành 2 miền riêng biệt, với 2 thể chê khác nhau, do cái gọi là tứ cường Liên Xô, Anh, Pháp và Trung Cộng tự ý quyết định số phận của đất nước và dân tộc VN, tại bàn hội nghị Genève ( Thụy Sĩ ). Hoa Kỳ lúc đó là đồng chủ tịch nhưng vì một lý do gì đó, nên không ký vào biên bản. Từ đó, Bắc Việt do Hồ Chí Minh lãnh đạo, công khai theo chế độ cọng sản và là chư hầu của Nga-Tàu. Miền Nam chọn chính thể Cọng Hòa. Hai miền VN lấy vĩ tuyến 17, cũng là con sông Bến Hải, tỉnh Quảng Trị, làm ranh giới tạm chia. Theo tinh thần hiệp ước đình chiến, quân viễn chinh Pháp phải rút hết về nước, còn VC trong mặt trận Việt Minh tại miền Nam, cũng phải tập kết ra bắc.

Từ khi chính thức làm trùm nửa nước, Hồ Chí Minh và đảng VC, theo chân Mao Trạch Ðông, phóng tay phát động phong trào cải cách ruộng đất năm 1956, làm cho hằng vạn người dân vô tội tại miền bắc, bị đấu tố chết thảm thương, trong số này hầu hết đều có công với nước hay với đảng trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Nội vụ được giấu kín hay được bọn trí thức khoa bảng da trắng thân cộng như G.Kolko, tác giả quyển “ VN Anatomy of wars 1940-1975 “ tuyên truyền hoàn toàn trái ngược với sự thật. Trong khi đó, tình hình chính trị của miền Nam từ A ố Z, bị bọn trí thức thân cộng trong và ngoài nước, moi móc, bịa đặt đủ điều vơí mục đích làm mất chính nghĩ quốc gia của người miền Nam, trong lúc đang chiến đấu chống lại sự xâm lăng của đệ tam quốc tế .

Tại VNCH, những năm đầu tiên, TT Ngô Ðình Diệm đã gặp rất nhiều khó khăn , trong việc đương đầu với với các Giáo phái và lực lượng Bình Xuyên. Lợi dụng giậu đổ bìm leo, VC nằm vùng tại miền Nam đã phát động các cuộc nổi loạn võ trang, gọi là đồng khởi tại Trà Bồng (Quảng Ngãi), Bắc Ruộng (Bình Thuận) và Mõ Cầy (Bến Tre), song song với các vụ khủng bố, ám sát đồng bào và viên chức xã ấp khắp nơi nhưng cuối cùng mọi hành động phá rối của VC đều thất bại. Theo hầu hết các nguồn sử liệu còn lưu trữ, cho biết tình hình chính trị tại VNCH, vào những năm 1956,1957, 1958 rất khả quan từ Sài Gòn cũng như các tỉnh, nơi thị tứ cho tới chốn quê làng, đâu cũng vui sống cảnh thanh bình no cơm áo ấm. Nhờ vậy TT Ngô Ðình Diệm cũng như Chính Phủ Miền Nam, lúc đó đã gây được uy tín rất lớn trên thế giới.

Trước tình hình nguy ngập đó, Hồ Chí Minh đã phải gọi Lê Duẩn, lúc đó đang làm xứ bộ trưởng, chỉ huy cán bộ nằm vùng tại miền Nam, trở ra Bắc, để duyệt xét lại kế hoạch cưỡng chiếm VNCH bằng vũ lực, thay vì kỳ vọng vào cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước như Hiệp định Geneve 1954 đã qui định, mà VNCH không chịu thi hành, vì không hề ký vào biên bản hiệp ước trên. Trong phiên họp lần thứ 15 của Bộ Chính Trị Trung Ương Ðảng, khai diễn ở Hà Nội vào tháng 1-1959, quyết định thành lập Lực Lượng Vũ Trang tại Miền Nam. Kế tiếp ngày 5-10-1960, đảng lại họp Ðại Hội 3 cũng tại Hà Nội, để thành lập Ðảng Bộ cọng sản Miền Nam, qua danh xưng “ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam “, làm cánh tay nối dài, vừa là bình phong, vừa tạo công cụ xâm lăng cho Bắc Việt. Ðúng như Lê Duẩn đã tuyên bố “ Ðó là chiến lược bảo đảm thắng lợi hoàn toàn cho cuộc cưỡng chiếm miền Nam, dưới sự lãnh đạo của đảng Mác-Lê và giai cấp công nông “. Tóm lại theo chủ trương của Hà Nội, Ðảng Bộ CS miền Nam, tức MTGPMN , phải hành động theo ba mục tiêu chiến lược :
1- Ly gián đồng bào và chính quyền VNCH
2- Ðánh lừa dư luận thế giới về cuộc xâm lăng của miền Bắc, trở thành cuộc nội chiến tại miền Nam .
3- Tuyệt đối phải tuân theo các chỉ thị của đảng, do miền Bắc lãnh đạo, Mặt trận miền Nam chỉ thừa hành, theo đúng chính sách đề cương trong khối xã hội chủ nghĩa quốc tế.


Nên tới nay, dù được gọi bằng danh từ gì chăng nửa như Cục R, Ðảng bộ CS Miền Nam, Mặt Trận GPMN.. thì cũng chỉ là “ Mặt trận mốc xì, đảng ta đó “ qua lời tuyên bố trơ trẽn của Lê Ðức Thọ tại Ba Lê, sau khi vừa ký xong với Kissinger trên tờ hiệp định ngưng bắn năm 1973. MTGPMN được hợp thức hóa vào cuối tháng 12-1960 tại một căn cứ của VC, nằm cách biên giới Việt-Miên chừng 7km. Ðây là khu rừng già nằm kế cầu Cần Ðăng, trên con đường đá đỏ Trà Băng, Trại Bí, Xóm Mới, Sóc Ông Trang.. thuộc tỉnh Tây Ninh. Buổi lễ được đặt dưới quyền chủ tọa của Sáu Vi,bí danh của đại tướng Nguyễn Chí Thanh, ủy viên bộ chính trị, bí thư trung ương đảng, nguyên phụ trách vấn đề nông dân và thanh niên miền bắc. Mặt trận có mười nhân vật khoa bảng miền Nam, đang đối lập chính trị với VNCH, gồm Nguyễn Hữu Thọ (đang bị giam tại Cũng Sơn-Phú Yên, vì tội hiếp dâm, dược VC giải thoát ), Trương Như Tảng, Dương Quỳnh Hoa, Phùng văn Cung, Ưng văn Kỳ.. Bọn này hầu hết thuộc thành phần địa chủ, phú gia thời Pháp thuộc, được VC nằm vùng là Huỳnh tấn Phát móc nối dụ dỗ. Tất cả được Hà Nội đem ra làm bung xung che mắt thiên hạ nhưng đầu não lãnh đạo, vẫn do Lê Duẫn, Lê Ðức Thọ, Phạm Hùng, Trần văn Trà, Nguyễn Chí Thanh.. quyết định theo đúng chính sách của Hà Nội đã nghị quyết. Cũng từ đó, Nguyễn Hữu Thọ được phong hàm chủ tịch Mặt Trận, mở đầu cuộc chiến xâm lăng Miền Nam bằng vũ lực.

Tại Miền bắc, Hồ Chí Minh ban lệnh hồi kết, hàng chục ngàn cán binh bộ đội trở về Nam, để thành lập “ Quân Giải Phóng “ do Trần Văn Trà làm tư lệnh. Một số lớn Hoa kiều sống tại Hải Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Thanh Hóa.. cũng được vào Nam, cùng một số Hoa Kiều thân cộng, đang do Tư Méo, tức Trương Gia Triều, bí danh Trần Bạch Ðằng chỉ huy, để trà trộn, tuyên truyền gây rối trong cộng đồng người Hoa miền Nam. Ðồng thời con đường mòn giao liên cũ, từ miền bắc vào Liên Khu 5, do đại tá Nguyễn Thông, bí danh của trung tá Nhật Ishitako, mở năm 1947, cũng được đảng giao cho Hai xe ngựa tức đại tá Võ Bẳm, nối lại, để trùng tu vào năm 1959. Ðây là con đường chiến lược Liên Việt, tức là đường mòn Trường Sơn hay Hồ Chí Minh, mang bí danh 559A. Sau khi Pha.m văn Ðồng nhân danh thủ tướng nước VNDCCH, theo chỉ thị của đảng và ch Hồ Chí Minh, ký xác nhận quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa thuộc Trung Cộng vào năm 1958, thì Hà Nội được Tàu Cộng, giúp phương tiện mở thêm một đường dây trên biển Ðông với bí danh 559B hay 759, chuyển quân dụng và bộ đội từ bắc vào nam bằng đường thủy. Theo Ðồng văn Cống, từng phụ trách đường dây 559B từ 1959-1968, thì việc tổ chức hai con đường bí mật trên, chỉ có Hồ Chí Minh, Phạm văn Ðồng, Lê Duẩn, Phạm Hùng, Lê Ðức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng và Trần văn Trà, biết mà thôi. Còn những người khác chỉ thừa hành theo lệnh, kể cả Nguyễn Chí Thanh, Trần Ðộ, Trường Chinh..

2- Ð Mòn Hồ Chí Minh :

Sự thật, những chuyện đã xảy ra hằng ngày , trên đường mòn HCM, tức là hành lang xâm nhập người và quân dụng, từ Bắc vào Nam của cong sản Hà Nội, đối với Hoa Kỳ và VNCH, không phải là huyền thoại hay bí mật ghê gớm, vì những gì xảy ra ở đó, qua phi cơ thám thính và các toán Biệt Kích hoạt động, họ gần như biết đủ. Có chăng là sự lạ lùng, vì ai cũng biết VC là kẻ chủ mưu gây nên cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2, chứ không phải là nội chiến. Ngoài ra cuộc xâm lược qui mô đều phát xuất từ đường mòn Trường Sơn, tiếp diễn liên tục đêm ngày không bao giờ gián đọan. Thế nhưng quân lực Hoa Kỳ, Ðồng Minh và ngay cả VNCH, cũng bị chính phủ Mỹ tại Hoa Thịnh Ðốn, ra lệnh giới hạn trong lúc chiến đấu với VC, theo qui định tại nhiều điểm, được gọi là “ Luật Chiến Ðấu ố Rules of Engagement “. Ngoài ra cũng không được tấn cộng hậu phương miền bắc, để tránh sự đụng độ quân sự với Trung Cộng, như đã xảy ra năm 1950, tại chiến cuộc Cao Ly.

Năm 1985, sau mười năm chấm dứt cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2, Bộ Quốc Phòng Mỹ mới cho phép giảm độ mật, khi cho Congressssional Record phổ biến hạn chế, cái gọi là “ Luật Chiến Ðấu tại VN “ qua 26 trang tóm tắt, trong đó có liên quan tới đường mòn Hồ Chí Minh. Cũng nhờ vậy, ta mới biết được nhiều điều thật vô lý, chỉ có siêu cường Mỹ mới có. Chẳng hạn nhu trong luật chiến đấu, có điều 3 cấm không quân Mỹ giội bom các quân xa VC, nếu chúng ở cách đường mòn HCM 200m. Ðiều này giúp cho quân xa Bắc Việt an toàn khi chúng lái xe trên đường mòn Trường Sơn, lúc nghe máy bay Mỹ oanh tạc, chỉ cần lái xe ra khỏi vị trí 200m, là hết chuyện. Còn điều 6 thì cấm quân Mỹ truy kích VC, nếu chúng rút qua biên giời Lào hay Kampuchia. Biếy vậy, nên hầu hết các căn cứ của Bắc Việt, kể cả cục R đều đươc lập sát hay bên kia biên giới, nên rất an toàn. Do trên các cuộc hành quân vượt biên mang tên Toàn Thắng, vào năm 1970 tại Miên hay hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào, vào thời TT Nixon, đã bị đảng Dân Chủ Mỹ thân cộng, căn cứ vào luật chiến đấu, la ó phản đối dữ dội. Cuối cùng tại Quốc Hội, cũng cái đám nghị sĩ-dân biểu đảng Dân Chủ Hoa Kỳ, ra luật cấm quân lực Hoa Kỳ hành quân vượt biên khỏi Nam VN. Những bí mật nhỏ nhoi trên, chỉ là một trong muôn ngàn điều bật mí sau này, cũng là lý do, khiến cho Mỹ cũng như VNCH, dù đã nỗ lực và hao tốn không biết bao nhiêu tiền bạc, xương máu nhưng cuối cùng vẫn không ngăn nổi cuộc tiến quân của Bắc Việt, trên đường mòn HCM. Theo Ðồng Sĩ Nguyên, phụ trách Binh Ðoàn 559A từ tháng 12/1966 tới tháng 4/1975, thì đơn vị này có gần 2000 xe vận tải và 4 binh trạm, với nhiệm vụ tải người và quân dụng từ miền Bắc vào Nam. Quân số của Binh đoàn 559A trên 120.000 người, gồm 10.000 thanh niên xung phong, 1 sư đoàn cao xạ phòng không của Bộ TTM/VC tăng phái và tám sư đoàn vận tải, chiến đấu trực thuộc. Sau ngày ký hiệp định ngưng bắn 1973, cọng sản Bắc Việt bãi bỏ giai đoạn gùi thồ đường đất và binh trạm, mà công khai chuyển quân từ bắc vào nam, mỗi lần cả sư đoàn tới binh đoàn, kể cả tăng-pháo, trước sự bất lực của VNCH khi Hoa Kỳ đã phủi tay về nước. Do trên cuộc hành trình chỉ mất 12 ngày, thay vì 4 tháng như trước, nên VC lúc nào cũng đủ quân số và quân dụng, vì có cả một núi người sẵn sàng “ sinh bắc tử nam “, cũng như các nước xã hội an hem, nhất là Trung Cộng, hết lòng chi viện. Trong lúc đó, VNCH chiến đấu với cả khối cọng sản đệ tam quốc tế trong cô đơn nơi chiến trường, đã vậy còn bị bọn cốt người mà óc khỉ tại hậu phương, công khai đâm hùa trí mạng. Chiến đấu trong hoàn cảnh thê thiết như vậy, không mất nước mới là chuyện lạ ?

A - ÐƯỜNG MÒN TRƯỜNG SƠN :

Hầu hết con đường chiến lược HCM đều nằm trên rặng Trường Sơn, kể cả tuyến xuất phát tại Vinh (Nghệ An), cho tới đoạn cuối cùng rẽ vào Phước Long. Rặng trường Sơn là xương sống của Trung phần, khởi đầu từ sông Cả tới sông Bông (Quảng Nam), chạy dọc theo biên giới Việt Lào. Từ bắc vào nam, có nhiều rặng núi cao trên 2500m, như Pu-Sai-Lai-Leng ở Nghệ An cao 2711m, Vụ Quang tại Hà Tĩnh cao 2286m, A Tuất ở Thừa Thiên cao 2550m.. Nhưng nhờ có nhiều đèo như Kéo Nưa trên núi Bà Mụ, đèo Mụ Giạ ở Hà Tỉnh, đèo Lao Bảo trên quốc lộ 9, nên sự thông thương giữa Lào-Việt rất thuận tiện. Từ năm 1960 về sau, Bắc Việt lợi dụng những đường đèo trên, để nối liền nhánh Trường Sơn Ðông ở VN sang Trường Sơn Tây, hoàn toàn nằm trên đất Lào.

Rặng Trường Sơn từ phía nam sông Bông tới Miền Ðông Nam Phần, được gọi là Cao Nguyên Nam Trung Phần, vì độ cao chỉ còn trung bình 1000m, trừ phía bắc tỉnh Kon Tum, cửa ngỏ của Bắc Việt xâm nhập vào Vùng 2 chiến thuật, lại có nhiều rặng núi cao, rất đồ sộ và hiểm trở như Ngọc Lĩnh (2598m), Movia (2338m), Ngok Krin (2215m). Tại tỉnh Pleiku, cao nguyên Nam Trung Phần, hơi cao ở mạn đông tại ranh giới các tỉnh Phú Bổn, Bình Ðịnh nhưng lại thấp dần ở Miền Ba Biên Giới. Lợi dụng địa thế thiên nhiên vùng này, Hà Nội đã làm một nhánh rẽ, từ Ðức Cơ-Pleime xuống miền duyên hải Trung phần.

Khởi đầu từ năm 1959, đường mòn HCM do Hai xe ngựa (Võ Bẳm) sáng tạo, thật sự chỉ là một tuyến đường gùi vô cùng bí mật, với “ đi không để dấu, nấu không để khói và nói không thành tiếng “. Sau đó theo thời gian và nhu cầu chiến cuộc, tuyến gùi phát triển dân thành tuyến đường thồ xe đap, rồi đường xe ô tô với đường dây điện thoại cùng hệ thống ống dẫn dầu, chạy song song kế đường mòn. Có thể gọi đây là một Bát Trận Ðồ cũng không ngoa chút nào vì con đường có tới hằng trăm, hằng ngàn nhánh nhỏ, chạy chằng chịt dọc ngang, từ đông sang tây, khắp nam tới bắc, chẳng biết đâu mà mò, kể cả VC, nếu không có giao liên hướng dẫn, vẫn bị lạc chết đói, như Dương Thu Hương đã kể trong tiểu thuyết “ Vô Ðề “. Sau năm 1973 khi hiệp định ngưng bắn ra đời, Kissinger cho phép quân Bắc Việt ở lại VNCH hợp pháp như là một thực thể chính trị, giúp Hà Nội ngang nhiên xây dựng con đường chiến lược trên, thành một xa lộ đất xe cộ xuôi ngược rộn rịp đêm ngày. Năm 1974, chủ tịch cọng sản Cuba là Fidel Castro đã tặng cho Hà Nội, một dàn thiết bị máy móc, làm cầu đường do Nhật chế và còn giúp một đơn vị công binh, tới tận Quảng Trị hướng dẫn công binh Bắc Việt, làm chiếc cầu dây treo Dakrong, nằm trên ngã tư Khe Sanh-Tchépone và đường mòn. Sau đó chính Fidel Castro tới tận chỗ để làm lễ khánh thành cầu, còn được hướng dẫn đi thăm Ðông Hà, mà Bắc Việt khoe là vùng giải phóng, từ sau trận Mùa Hè Ðỏ Lửa năm 1972.


Theo các tài liệu hiện hành của cả mọi phía, có trong thư viện và báo chí VC sau này, thì hệ thống đường mòn HCM, chạy dài từ Trung Lào tới Cam Bốt, sự thật là hoàn toàn nằm trên lãnh thổ Lào-Miên. Con đường này được xâm nhập vào lãnh thổ VNCH bằng năm nhánh rẽ với 21 trục giao liên, có chiều dài tính theo đường đất tổng cộng hơn 12.000 dặm Anh. Con đường được mang nhiều tên và chỉ có đọan trên lãnh thổ Bắc Việt, mới được gọi là đường Hồ Chí Minh. Riêng khúc đường chạy trong lãnh thổ Lào và Nam VN lại có nhiều tên như đường Thống Nhất, Dân Tộc Giải Phóng và Cách Mạng. Còn đoạn cuối trên đất Miên là đường mòn Sihanouk. Ðể bảo toàn bí mật, tất cả hàng hóa, quân dụng, vũ khí và bộ đội xuất phát từ ga Hàng Cỏ (Hà Nội) hay Vinh (Nghệ An), đều được đưa tới cửa ngõ Tân Kỳ (Nghệ An) hay Quán Trại (Ðức Tho-Hà Tĩnh), để vào Quảng Bình và Quảng Trị, rồi từ đó mới xuất tuyến xâm nhập vào Nam. Nhưng đường đi, dù ở trong lãnh thổ Bắc Việt, vẫn vô cùng nguy hiểm, vì bị phi cơ Hoa Kỳ oanh tạc hằng ngày, nhất là tại thung lũng tử thần Ðồng Lộc. Ở đây, đường chạy giữa hai rặng núi cao, bên này là Rú Mòi, còn phía kia mang tên Sọ Voi. Ðây chính là cửa ngỏ đầu tiên, của đường mòn HCM, nối liền bắc VN tới lãnh thổ Lào. Từ đó đường mòn mang tên Trường Sơn Tây, tiếp tục tới Khâm Muôn (Lào), thì gặp Ðường 20 Quyết Thắng, từ Phọng Nhạ (Quảng Bình) sang. Khúc đường này dài hơn 127 km, chạy len lỏi giữa khu rừng già Kẽ Bàng và miền hoang địa Bulapha của Lào.

Theo báo Aux Ecoutes du Monde, thì hải cảngVinh (Nghệ An), là yết hầu của đường mòn HCM, vì gần như mọi thứ đều xuất phát ở đây, để xâm nhập vào Nam. Cũng từ đây, đường được phân làm ba nhánh qua Lào, để tránh thiệt hại vì sự oanh tạc của máy bay Mỹ. Riêng tổng hành dinh của Ðoàn 559A, thì đóng rải rác trong khu tam giác các thị trấn Napé, Kamkeut,Kanmon.. nằm dọc theo con sông Nam Pao của Lào. Ðây là một quân chủng đặc biệt của cọng sản Bắc Việt, gồm công binh, vận tải, trách nhiệm bảo trì, sửa chữa con đường, đồng thời phân phối quản trị đoàn dân công, xe tải chuyển vận bộ đội, vũ khí, tiếp liệu từ bắc vào chiến trường miền Nam.

Tại ngã ba Khâm Muôn, giao điểm của hai nhánh Quyết Thắng 20 và Tân Kỳ, đường mòn HCM, đi vào khu rừng già Hạ Lào, cặp kè với con sông Nam Cà Dinh, chạy tới đỉnh dốc đứng 1001 trên núi Răng Cọp. Từ đây đường mòn đổi tên thành Trường Sơn, sau khi vượt qua vĩ tuyến 17, để tới thị trấn Tchepone (Muang Xepon) nằm trên quốc lộ 9. Ðây cũng là phân nhánh đầu tiên của đường mòn Trường Sơn, xâm nhập lãnh thổ VNCH, để tấn công các căn cứ quân sự Lao Bảo, Khe Sanh, Làng Vei, Cà Lu.. trong tỉnh Quảng Trị. Sau đó, đường mòn vẫn tiếp tục chạy trên đất Lào tới núi Ấp Bia (937m), một địa danh nổi tiếng, trong cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1960-1975), được một ký giả ngoại quốc, chứng kiến tận mắt cảnh hàng ngàn xác bộ đội Bắc Việt, bị banh thây bỏ lại tại chiến trường, vì bom dạn phi pháo, nên đã đặt là Hambuger Hill. Tại đây, đường lại được phân nhánh tới các thung lũng A Lưới, Tà Bạt và A Shau. Ðậy là bàn đạp mà Hà Nội tập trung bộ đội, để tấn công Thừa Thiên và Ðà Nẳng. Sau khi vượt qua cao nguyên Boloven gần ngã ba biên giới Việt-Lào-Miên, đường mòn lại phân thành hai nhánh khác chạy vào lãnh thổ VNCH, một nhánh phát xuất từ Savarane tới Dakto, Tân Cảnh, Kontum.. trước khi ngang qua các trại Lực Lượng Ðặc Biệt Benhet, Dakto.. Nhánh khác từ Attopeu vào Pleiku, ngang qua Trại LLÐB Ðức Cơ, Pleime. Nằm giữa hai nhánh rẽ này vẫn trên đất Lào, là mật khu 609 của Bắc Việt. Kể từ đây, đường mòn Trường Sơn đổi thành đường mòn Sihanouk, với nhiều mật khu như 702,701,740, 203,351,350 và 400. Trên đất Miên, đường mòn có một nhánh rẽ vào Phước Long và phần cuối cùng chạy xuống tận hải cảng Kampong Som (Sihanouk Ville) của Miên. Chính tại đây, Bắc Việt nhận trực tiếp hàng hóa viện trợ của Nga,Tàu và Ðông Âu, tới năm 1970 mới chấm dứt, khi Sihanouk bị Lonnol lật đổ. Nhờ đó Hoa Kỳ và QLVNCH mới được phép hành quân sang đất Miên theo lời yêu câu của chính phủ mới, nên mối tiêu diệt gần như tất cả các mật khu của Bắc Việt tại đây, qua các cuộc hành quân Toàn Thắng và Cửu Long.

Tóm lại suốt cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai, ngoài số nạn nhân chết bởi bom đạn, giao tranh, phần lớn bộ đội, cán binh cọng sản miền bắc, được ghi nhận là ngã gục trên đường Trường Sơn, vì trăm ngàn nổi gian lao cực nhọc và bệnh tật, đó là chưa kể tới chết khi đụng trận, bị bom đạn oanh tạc, mìn bẩy. Hàng vạn nấm mồ hoang lạnh, được vùi lập vội vàng, trên con đường dài heo hút, chỉ một thời gian ngắn, đã biến thành phân mục, bón xanh thêm cây lá rừng hoang, như Trần Xuân Lợi, một bộ đội vượt tuyến đã viết :

“ Những hồi mưa ngớt

Tựa nghĩ gốc cây

Nhìn rừng không nói

Nhìn mây chẳng thấy

Chỉ có núi đèo

Kế nhau nối tiếp

Oại là khủng khiếp

Cho cảnh Trường Sơn ..”

Hay : “ Rải rác biên cương mồ viễn xứ, chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, áo bào thay chiếu anh về đất, sông nuí gầm vang khúc độc hành ố Quang Dũng “. Tất cả là sự thật, mà Ðại Tá Võ Ðại Tôn, tức nhà thơ Hoàng Phong Linh, trong cuộc Ðông Tiến bất thành, khi trở về VN để giải phóng quê hương sau năm 1975, đã ghi lại :

“ Ðỉnh núi cao mây vờn,

đá nghìn năm quên tuổi

ta lạc loài như dã thú không tên

qua Tchépone, Boloven

về Hạ Lào thăm thẳm

Atopeu đường xa muôn dặm

Rừng tây nguyên heo hút trong tim ..”

Con đường có rất nhiều đoạn dài, xuyên giữa rừng già bất tận, phi cơ quan sát hay không ảnh cũng bó tay, ngoại trừ sự xâm nhập của các Toán Biệt Kích, thuộc binh chủng LLDB/VNCH.

Ðể bảo vệ con đường chiến lược này, Bắc Việt thành lập Ðoàn 559A, gồm nhiều binh trạm, mỗi nơi có quân số tương đượng một trung đoàn tác chiến. Giữa hai khu vực, có các toán giao liên và các kho dã chiến. Vùng nào lo vùng nấy, không ai biết gì tới các khu vực lân cận. Tóm lại, Ðoàn 559A chỉ có trách nhiệm từ vĩ tuyến 17 đổ vào nam mà thôi. Riêng phía bên này vĩ tuyển ra tới Bắc Việt, bổn phận tái tạo và giữ tốt, các tuyến đường giao thông, tiếp vận cho chiến trường, được giao cho hàng vạn thanh niên nam nữ, trong ba tổng đội Thanh Niên Xung Phong. Do trên đã có không biết bao nhiêu người tuổi trẻ, phải gục chết giữa bom đạn, khi bị bắt buộc bám trụ tại chỗ, để mỗi lần phi cơ Mỹ oanh tạc vừa dứt, thì họ với sức người và cuốc xẻng, ào ra chiến trường, để lấp hố bom trên mặt đường vừa bị cầy nát. Bởi thế giao thông không bao giờ bị gián đoạn.

B - CÁN BINH, BỘ ÐỘI BẮC VIỆT TRÊN ÐƯỜNG MÒN HCM :

Với mục đích lường gạt dư luận thế giới, đánh lận con đen, chối bỏ việc trắng trợn xâm lăng VNCH, nên cọng sản Bắc Việt lúc nào cũng tổ chức cuộc chuyển quân vào Nam, thật bí mật. Thêm vào đó là sự phụ họa rất ăn khớp nhịp nhàng của một số báo chí theo VC tại miền Nam, nên Hà Nội gần như đâm mù cả nhân loại, khiến ai cũng tin là cuộc chiến tại miền nam, là do chính người miền nam vì bất mãn chính phủ độc tài tàn bạo, nên nỗi loạn chống phá, chứ miền bắc không hề can dự. Thời gian đầu cuộc chiến, việc chuyển quân từ bắc vào nam, thật vô cùng khó khăn nguy hiểm. Vì thế chỉ có bộ binh vượt tuyến mà thôi. Còn vũ khí quân dụng, được chuyển vận bằng ghe thuyền tại tuyến đường 559B trên Ðông Hải, do Ðồng văn Cống phụ trách. Trước tết Mậu Thân 1968, bộ đội Bắc Việt vào Nam, được bồi dưỡng và huấn luyện trong thởi gian 8 tháng, với tiêu chuẩn 2 đồng 40 xu tiền Hồ/1 ngày. Trước khi lên đường “ sanh bắc tử nam”, các cán binh bộ đội được cấp 5 ngày phép về thăm gia đình. Vì chủ nghĩa xã hội miền bắc rất công bình, con trốn quân dịch, cha mẹ dù có già 100 tuổi vẫn phải đi thế, ngoài ra tất cả tem phiếu, sổ gia đình đều bị tịch thu. Nên trong một xứ mà tất cả nhu yếu phẩm đều phải bó buộc mua tại cửa hàng quốc doanh, chợ nhà nước, thì đâu có ai dám không đi lính, để vừa khổ thân lại làm liên lụy cho gia đình. Ở Bắc Việt, củng không có chùa, nhà thờ và trường đại học, nên cũng không có chế độ hoãn dịch vì tu xuất hay học hành. Còn du học hay xuất ngoại , thì chỉ dành ưu tiên cho con cái và gia đình cán bự cỡ tổng bộ trưởng và hàng trung ưởng đảng, nên sau khi hết phép, ai nấy đều trở lại để lên đường vào Nam theo lệnh đảng.

Trên đường tiến quân còn trong lãnh thổ Bắc Việt, các đơn vị chính quy hành quân, vẫn sử dụng quân phục cố hữu bằng vải kaki Nam Ðịnh, với mũ bầu có bọc vải dầu, màu xanh lá cây. . Quân xa sẽ chở bộ đội tới Lào, qua một trong ba tuyến đường chiến lược, nối liền hai nhánh Trường Sơn Ðông và Tây, tại Ðồng Lộc (Hà Tĩnh), Phong Nhạ (Quảng Bình) và Vĩnh Linh (Quãng Trị), để tới biên giới VNCH. Tại đây, bộ đội cọng sản Bắc Việt, sẽ lột xác hoàn toàn thành người “ Giải Phóng Quân “ trong MTGPMN của Anh Tho., chi Bình, chị Ðịnh. Bến Tre lập ra. Tóm lại tất cả những gì có liên hệ tới cọng sản miền Bắc, đều phải hoàn trả hết cho cán bộ chính trị đơn vị. Từ đây bộ đội chính quy miền bắc là giải phóng quân miền nam, dù cả hai đều là đảng ta đó, nên phải mặc đồ bà ba đen, khăn rằn quàng cổ, mang dép râu, đội mũ tai bèo, y chang như VC tại Nam phần đã sắm tuồng từ năm 1960. Cả tới cờ hiệu, cũng phải dùng cờ MTGPMN, nửa xanh nửa đỏ giữa có sao vàng. Còn bài hát thì đã có bản “ Giải phóng miền nam “ của Nguyễn Minh Siêng tức Lưu Hữu Phước.

Trước khi hiệp định Ba Lê 1973 ký kết, nhằm hợp thức hóa cũng như cho phép bộ đội chính quy Bắc Việt, được công khai đóng ngay trên lãnh thổ VNCH, thì sự di chuyển trên đường mòn HCM rất khó khăn nguy hiểm, kể cả các tuyến giao thông chiến lược, nối Bắc Việt với nhánh Trường Sơn Tây, nằm trong lãnh thổ Trung Lào, vì phi cơ Hoa Kỳ oanh tạc ngày đêm liên tục. Nên chỉ riêng đoạn đường, từ điểm xuất phát đầu tiên tại Tân Kỳ (Nghệ An), tới thi trấn Tchepone (Hạ Lào), cũng phải mất từ 2 -3 tháng. Sau đó các đơn vị bộ đội chính quy miền bắc, được các toán giao liên hướng dẫn vượt tuyến và xâm nhập các trục vào lãnh thổ VNCH để hoạt động, tuỳ theo nhiệm vụ được đảng giao phó. Sau tháng 2-1973, không quân Hoa Kỳ chính thức rút khỏi cuộc chiến, còn VNCH thì không đủ phương tiện để ngăn chân, nên Bắc Việt gần như công khai hoạt động, không cần che đậy để lừa bịp dư luận như trước. Do trên, con đường mòn được tu bổ thành một xa lộ đất. Dọc đường, thiết lập nhiều khu dưỡng quân, bệnh xá, kho tiếp liệu. Song song là một hệ thống ống dẫn dầu, xăng cùng một đường dây điện thoại cao thế, do Liên Số và các nước Ðông Âu cung cấp viện trợ, bom dầu từ các tàu nhiên liệu cập bến ở Nghệ An. Tại các mật khu cũng như địa điểm trọng yếu, Bắc Việt cho bố trí một mạng lưới phòng không dầy đặc, với đủ loại súng đại bác do Nga Sô, Ðông Ðức viện trợ như súng cao xạ, hỏa tiễn loại 35 và 57 ly. Từ năm 1965 tới 1967, ước chừng 7000 bô đội chính quy xâm nhập miền Nam hằng tháng. Trong đợt tổng công kích Tết Mậu Thân 1968, quân số cọng sản Bắc Việt, có mặt tại lãnh thổ VNCH hơn 100.000 người. Ðể chuyên chở người, quân dụng và vũ khí vào Nam trên đường mòn Trường Sơn, Hà Nội đã huy động một số quân xa, từ 1250 - 1700 chiếc. Những quân xa này đều do TRung Cộng, Liên Xô viện trợ, gồm các hiệu Zills, Molotova.. loại 130 bốn bánh và 157 sáu bánh, có trọng tải từ 4-6 tấn. Ngoài ra có một đoàn dân công khổng lồ, thi hành theo cái gọi là “ nghĩa vụ lao động “, từ 16-55 tuổi “, không phân biệt nam nữ, để giữ hộ khẩu và được sống yên trong chế độ công an khu vực. Hàng hóa phần lớn được chuyển vận vào Nam bằng sức người, xe đạp và voi.

Sau tháng 5-1975 chiến tranh chấm dứt, có rất nhiều bí mật được bất mí, phần lớn nhằm làm sáng tỏ lý do thất bại của Quân Lực Ðồng Minh, Hoa Kỳ và VNCH trong cuộc chiến Ðông Dương, mà nỗ lực chính là ngăn chận và phá vỡ hệ thống đường mòn Trường Sơn, hành lang chính để cán binh bộ đội cọng sản Bắc Việt, xâm lăng Miền Nam. Ðồng thời phơi bày ra ánh sáng, thảm trạng “ Mạng người lá rụng “ vì đường đi không tới, của hằng trăm ngàn người “ sinh bắc tử nam “. Tất cả nạn nhân chiến tranh trên, chẳng có ai vì nhiệt tình cách mang, ngu để phải chết thảm thê vì đụng độ, máy bay oang tạc, hải pháo và bệnh tật không có thuốc men chửa trị. Và dù phía VNCH không đạt được chiến thắng cuối cùng nhưng rõ ràng Họ đã tiêu diệt và phá vỡ gần hết những mật khu quan trọng của Bắc Việt, trên đuờng mòn Trường Sơn, như 604 tại yết hầu Tchépone-Hạ Lào và 611 trong thung lũng Ashau, gồm nhiều binh trạm, hậu cần, ống dẫn dầu cùng các tổng kho tiếp tế. Tác giả Lane Rogers cũng là Ðại Tá Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, từng tham dự nhiều trận chiến trên đường mòn, đã viết :” Ðể bảo vệ và hoạt động được liên tục trên hành lang chuyển quân, Bắc Bộ Phủ đã thí quân một cách vô nhân đạo. Ðó là lý do nhiều lần con đường chính và năm nhánh rẽ vào Nam VN, tưởng như đã bị phá vỡ hoàn toàn. Nhưng rồi đoàn kiến người cũng tìm đủ mọi ngõ ngách khác để xâm lăng miền Nam. Riêng Thống Tướng Westmoreland,cựu Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ và Ðồng Minh, chiến đấu tại VN, thì giải thích lý do thất bại của Mỹ, trong nỗ lực hủy diệt con đường này, phần lớn do trở ngại thiên nhiên,là chốn ma thiêng nước độc, gây sự sợ hãi chết chóc nhiều nhất trên thế giới.

3 Máu Ðẵm Trường Sơn (1960-1975) :

Hai mươi năm chiên cuộc VN, đã cướp mất đi hằng triệu thanh niên nam nữ hai miền đất nước, cũng như đồng bào vô tội. Sự tủi nhục và đau lòng nhất, riêng chỉ có kẽ trong cuộc và dân chúng xã nghĩa Bắc Việt mới hiểu thấu. Riêng người miền Nam sống tại các đô thị lớn như Sài Gòn, Huế, Cầm Thơ.. gần hết chỉ hiểu một cách đại khái, mù mờ, qua tài liệu, báo chí và sự tuyên truyền của cả hai phía. Họ đâu có bao giờ biết rằng, trong suốt cuộc chiến, Bắc Việt, Hoa Kỳ và QLVNCH, đã dành giựt từng thước đất trên đỉnh Trường Sơn, vì một bên thì quyết lòng dùng máu xương người để xây huyết lộ, còn phía bên kia cũng lấy mạng sống, bom để phá hủycho tận tuyệt. Nói chung cả hai phía đều sử dụng tối đa mạng sống con người Việt, qua các khẩu hiệu hào nhoáng nhưng mặt thật, cũng chỉ để phục vụ cho quyền lợi riêng tư của họ mà thôi.

A-VỀ PHIÁ CỌNG SẢN BẮC VIỆT :

Sau khi Thủ Tướng Liên Xô Nikita Khrowshchev, phát pháo mở màn cuộc chiến giải phóng toàn cầu vào ngày 6-1-1961, cũng là thời gian khởi đầu cho tới ngày 30-4-1975, Bắc Việt xâm lăng cưỡng chiếm VNCH. Ngoại trừ các chóp bu ngồi tại Bắc Bộ Phủ, không ai có thể biết rõ, đã có bao nhiêu cán binh, dân công và thanh niên xung phong đã bị thương vong vì cuộc chiến. Phần thì cọng sản quen bưng bít sự thật, hơn nửa trong chủ nghĩa thiên đàng, không có chế độ thươg binh ngoài mặt trận. Nên tất cả những điều Ðảng tuyên bố, gần như là tuyên truyền láo bịp, nên sự thật đâu biết sao mà mò ? Nhưng chắc chắn có điều, gần hết các trận đánh khốc liệt , đều xảy ra trên hành lang chiến lược Trường Sơn, từ sự hủy diệt bằng bom mìn, hàng rào điện tử, chiến tranh khí tượng, thuốc khai quang, không quân cho tới những đụng độ trực tiếp giữa Bắc Việt với Hoa Kỳ và VNCH, mà cao điểm là cuộc hành quân Lam Sơn 719, tại Hạ Lào-1971.

Trên lãnh thổ Bắc Việt, trực diện với bom đạn hằng ngày, là những nam nữ thanh niên, trong các Tổng Ðội Thanh Niên Xung Phong. Nhiều người đã bị chết một cách oan khiên tức tưởi, tại ngã ba Ðồng Lộc (Hà Tĩnh), Ðường 20 Quyết Thắng (Quảng Bình), Hưng Hóa (Quảng Trị ).khi bị bắt buộc thi hành các công tác hiểm nguy như giao liên đơn độc giữa rừng núi muôn trùng, làm mốc hướng dẫn đoàn xe đến các địa điểm tránh bom Mỹ.. Trong muôn ngàn thảm kịch, được đưa lên phim quảng cáo, vẫn thảm nhất là cái chết của 10 cô gái TNXP, thuộc Tiểu Ðội 4/Tổng Ðội 53 ố Hà Tĩnh, bị bom đánh sập, chôn sống tập thể tại Ngã Ba Ðồng Lộc, vào sáng ngày 24-7-1968. Hoặc chuyện bốn cặp TNXP và công binh, cũng bị chết ngạt trong một cái hang núi tại Kẽ Bàng (Quảng Bình).. Nhưng đây cũng chỉ là một trong hằng triệu cái chết vô danh của phận người xấu số trong chiến tranh, nếu đem so sánh với những cái chết khác tại các tuyến đường rẽ vào lãnh thổ VNCH.

Không kể đến sự đụng độ thường xuyên giữa các Toán Biệt Kích Quân cảm tử, thuộc Binh chủng LLDB/VNCH và cán binh Bắc Việt, trên mọi ngõ ngách của đường mòn Trường Sơn, ngay cả trong lãnh thô Bắc Việt. Kể từ năm 1965 tới khi có Hiệp định Ba Lê 1973, đã có không biết bao nhiêu trận đánh lớn giữa cọng sản miền bắc và quân lực Ðồng Minh, Hoa Kỳ cũng như QLVNCH. Ðiển hình như các trận PLEIME -1965, giữa Toán A217 Biệt Lích Mỹ-Việt, TÐ91BCD/LLDB, TD1/TrD45/SD23BB, TD21+22/BDQ,Chi Ðoàn 3 Thiết kỵ/VNCH với 3 Trung Ðoàn 32,33,66 cong sản Bắc Việt. Ngày 27-10-1965, SD1kỵ binh không vận Hoa Kỳ, hành quân tại thung lủng IA-DRANG, Pleiku, bẻ gãy âm mưu tập trung của 3 SD Bắc Việt, nhằm chia cắt VNCH thành hai mãnh. Tháng 12-1965, Bắc Việt lại tấn công 2 Trại LLDB .Tà Bạt, A Lưới (Thừa Thiên), một trận đụng độ đẵm máu giữa cọng và Mỹ+VNCH tại căn cừ Ashau, một tiền đồn ngăn chận cán binh Hà Nội, tràn xuống miền duyên hải.

Mùa thu năm 1967, Bắc Việt tấn công đồng loạt nhiều tiền đồn VNCH trên đường rẽ vào Chiến khu C (Phước-Bình Long) cũng như Kontum, vì 2 khu vực này là cửa ngõ chiến lược quan trọng nhất trên hành lang xâm lăng VNCH của cọng sản Bắc Việt. Ðể giải tỏa áp lực tại Tiền đồn Dakto, 16 tiểu đoàn thuộc SD4BB +SD.Dù/Hoa Kỳ và Lực lượng Nhảy Dù VN, đã ác chiến với 1 SD.Bắc Việt, thương vong hai phía rất nặng.

Trên QL9 từ Hạ Lào vào Quảng Trị, có Tiền Ðồn Khe Sanh là căn cứ của Biệt kích quân VNCH, thành lập từ tháng 7-1962. Ðây cũng là điểm xuất phát các Phi Vụ Tiger Hound rải quân xâm nhập đường mòn HCM. Như các căn cứ Cồn Tiên, Gio Linh, Caroll, Cam Lộ.. Khe Sanh là các tiền đồn, đối diện với vùng biên giới phía bắc khu phi quân sự vỹ tuyến 17 lãnh thổ Bắc Việt. Bởi vậy cọng sản luôn tìm mọi cách tiêu diệt cái gai nhọn Khe Sanh, đâm vào yết hầu đường mòn Trường Sơn. Cuối năm1967, trưóc khi mở màn cuộc tấn công đẫm máu Tết Mậu Thân 1968, Võ Nguyên Giáp đã mở một mặt trận Ðiện Biên Phủ thứ 2 tại thung lũng Khe Sanh, với ý muốn dụ quân Mỹ vào rọ để tiêu diệt như đã từng xảy ra vào năm 1954 trên đất bắc. Nhưng Giáp đã tính toán sai, vì Hoa Kỳ mạnh hơn Pháp cả 100 lần, lại có một lực lượng hải pháo không quân hùng hậu, nên cuối cùng Bắc Việt phải chém vè về Hạ L2o, bỏ lại tại Khe Sanh hơn 20.000 xác bộ đội, tỷ lệ 90% quân số tham dự trận chiến. Cũng tại đây, ngoài quân Mỹ, còn có một đơn vị VNCH duy nhất được tăng phái, đó là TD37 Biệt Ðộng Quân. Ðơn vị này dù quân số ít ỏi, lại bị nằm tiền đồn nhưng suốt thời gian chiến cuộc, đã giữ vững được phòng tuyến phía nam của căn cứ Khe Sanh, qua nhiều đợt tấn công biển người của SD304 Bắc Việt.

Trong cuộc tổn công kích Tết Mậu Thân 1968, cọng sản thất bại hoàn toàn trên chiến trường, nên hầu hết tàn binh đều rút về phía bên kia biên giới Việt-Miên-Lào, trên đường mòn Trường Sơn. Phía VNCH và Hoa Kỳ đã mở nhiều cuộc hành quân truy quét. Tại Vùng 1 chiến thuật, ngày 16-4-1968 SD1ky binh Mỹ + TrD3/SD1BB/VN hành quân Lam Sơn 216-Dela Ware tảo thanh vùng A Lưới. Kế tiếp hành quân Sonerset Plain Lam Sơn 246 của SD101Dù Mỹ + TrD1/SD1BB/VN tại vùng A Lưới, Tà Bạt và mật khu 609. Ðầu năm 1969, SD101Dù + TrÐ9/TQLC/HK + TrD3/SD1BB/VN tảo thanh thung lũng A Shau. Vùng này có một ngọn núi cao trên 1000m, nằm ngay biên giới Lào-Việt, như một bình phong án ngữ các căn cứ A Lưới, Tà Bạt, A Sha. Một trận đụng độ kinh khiếp đã xảy ra tại đây giữa hai phía. Cùng tham chiến, không quân, pháo binh và các pháo đài bay B52, đã giội xuống chiến trường hơn một triệu cân Anh bom các loại, trong số này có 152.000 cân Anh bom lửa, khiến cho đồi núi, cỏ cây, rừng xanh và xác cán binh bộ đội cọng sản Bắc Việt bỏ lại khi chém vè, đều biến thành tro bụi. Cảm thương cho số phận con người vì tem phiếu, hộ khẩu, mà phải sinh bắc tử nam, nên một ký giả Mỹ có mặt tại trận địa, viết bài trên báo, đã ví von đặt tên núi Ấp Bia là Hamburger Hill. Sau này, báo chí VC hãnh diện tuyên truyền với thế giới, vì Mỹ chết nhiều quá, nên mới có cái tên ngộ nghĩnh trên.

Nhưng một biến cố cực kỳ quan trọng trên, gần như làm đảo lộn chiến lược xâm lăng miền nam của Bắc Việt, cũng như chiến thắng gần kề của VNCH, nếu như Nixon-Kissinger không bán đứng Miền Nam cho Bắc Việt, qua cai gọi là Hiệp định Ba Lê 1973. Ðó là cuộc chính biến trên đất Miên vào năm 1970. Ai cũng biết Kampuchia từ năm 1960, là hậu cứ an toàn của cọng sản Bắc Việt, để nhận trực tiếp hàng hóa quân dụng viện trợ của các nước XHCN, tại hải cảng Sihanouk Ville nằm trong vịnh Thái Lan. Ðây cũng là tổng hành dinh của Cục R, đầu não chỉ huy của đảng bộ cọng sản miền nam, qua ngụy danh MTGPMN. Ngày 18-3-1970, Lonnol lật đổ Sihanouk và theo Mỹ. Quân Miên cũng được lệnh tấn công các mật khu của Bắc Việt trên đất Miên. Chiến tranh đã nổ toàn diện trên đất chùa Tháp. Liên quân Khmer Ðỏ của Polpot và VC phản công và bao vây thủ đô Nam Vang, đồng thời người Miên qua sự xúi ngầm của tân chính phủ Lonnol, đã đồng loạt “ CÁP DUỒNG “ Việt Kiều khắp nơi, gây thảm trạng thương đau cho hằng vạn người dân vô tội, bị vạ lây do Bắc Việt gây ra từ mấy năm trước.

Ðể cưú đồng bào về nước, đồng thời mượn dịp thanh toán các căn cứ địa và cục R tại biên giới Việt-Miên, theo yêu cầu của Lonnol. Do trên,QLVNCH đã tổ chức cac cuộc hành quân rất qui mô, mang tên Toàn Thắng 41,42,43 do QD3 đảm trách. Song xong QD2 cũng hành quân Bình Tây và QD4 có hành quân Cưu Long. Trừ cuộc hành quân Toàn Thắng 43, do lưc lượng hỗn hợp Việt-Mỹ, gồm SD1 Không vận Hoa Kỳ + Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù và Thiết Ðoàn 2 kỵ binh/VN. Tất cả các cuộc hành quân khác, đều đo QLVNCH đảm trách, đã giúp Lonnol chiếm lại thủ đo Nam Vang, hải cảng Sihanouk Ville, đồng thời phá vỡ gần như toàn diện các mật khu của VC, trong đó có Trung Ương Cục R. Trên biển Ðông, Hải quân Mỹ còn tổ chức cuộc Hành quân Market Timer, để truy đuổi các tàu thuyền của Bắc Việt, trong việc chuyển vận quân trang dụng vào Nam, bằng tuyến đường biển 559B.

Ðể cứu sống đoàn quân xâm lăng đông đảo, đang có mặt ở miền nam, trong lúc các căn cứ tiếp vận tại Miên vừa bị phá hủy, nên cọng sản Bắc Việt đã gia tăng quân lực, bằng mọi giá giữ vững cho được Huyết lộ HCM trên đất Lào, mà trọng điểm là Thị trấn hoang tàn Tchépone. Ðây cũng lý do mà QLVNCH đã mở cuộc Hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào năm 1971, một trận chiếm đẫm máu nhất trong Ðông Dương thế chiến 2 (1960-1975). Phía VNCH có 17.000 quân tham dự, gồm các SD Nhảy Dù, SD TQLC, SD1BB, Liên Ðoàn 1BDQ và Lữ Ðoàn 1 Thiết Giáp. Về phía cọng sản Bắc Việt có Quân Ðoàn 70B, các SD2, 304,308, SD phòng không.. Quân Mỹ chỉ đóng bên kia biên giới, yểm trợ không vận, hải pháo, pháo binh.. Cuộc hành quân kết thúc ngày 25-4-1971 sau khi Trung Ðoàn2/SD1BB/VNCH tiến vào thị trấn Tchépone. Dù bị thiệt hại rất nặng nhưng QLVNCH đã phần nào đạt được mục tiêu chiên lược, là phá hủy hoàn toàn nhiều căn cứ tiếp liệu của Bắc Việt, tại mật khu 609 và 611 trên đường mòn HCM.

B-VỀ PHÍA VNCH :

Trong suốt cuộc chiến, hầu như tất cả mọi binh chủng của QLVNCH đều có mặt tại đường mòn Trường Sơn, kể cả Cảnh Sát Dã Chiến, Xây Dựng Nông thôn, DPQ+NQ.. Tuy nhiên đã có một Binh Chủng Ðặc Biệt, từ ngày thành lâp vào năm 1957, tới khi rã ngũ tan hàng, đã đơn độc hoạt động âm thầm trong lòng địch , trên suốt đường mòn HCM từ đông sang tây, ngay cả trong lãnh thổ của Miên và Lào. Họ là những chiến sĩ “ BIỆT KI’CH-BIỆT CÁCH “, không có sự yểm trợ nào của đơn vị bạn và hoàn toàn tụ lực cánh sinh để mà sống trong núi rừng, nhiều nơi chưa hề có dấu chân người.

Binh chủng LLDB có cấp số sư đoàn, bao gồm các đơn vị như Sở liên lạc, Sở công tác, Sở khai thác địa hình, các liên đoàn tác chiến 31, 77, 81 Biệt cách nhảy dù và Trung tâm Huấn luyện LLDB.Ðông Ba Thìn tại Cam Lâm-Khánh Hòa.


Như Kinh Kha ngày xưa, các chiến sĩ Biệt Kích ra đi ít khi được trở về. Một số ít đã bị bắt tại Bắc Việt và chịu kiếp tội đồ, tới nay nhiều người vẫn còn chưa được thả. Vì họ chính là kẻ thù không đội trời chung và cũng là khắc tinh của cọng sản, trên suốt đường mòn. Tóm lại nơi nào có VC thì nơi đó có LLDB. Hai bên đã trường kỳ đấu trí trong suốt cuộc chiến , qua đủ mọi hình thức. Nhưng vì lý do bảo mật, nên cả hai phía, đều không muốn nhắc tới.

C-VỀ PHÍA HOA KỲ :

Từ năm 1961, Lào trở thành một quốc gia trung lập, nên chính phủ Mỹ đã bị Quốc Hội, nhất là tên thượng nghị sĩ đảng dân chủ thân cộng William Fullbright và cái gọi là ủy ban ngoại giao, tìm đủ mọi cách ngăn chận cấm đoán quân Mỹ can thiệp vào đất Lào. Trong lúc đó, cọng sản Bắc Việt không hề đếm xỉa tới cái gọi là hiệp định Genève 1961, tự tác mở con đường Tây Trường Sơn ngay trên đất Lào, để làm hành lang chuyển quân và tiếp vận xâm lăng miền nam. Cũng do Quốc Hội trói buộc, nên từ đời TT Kennedy cho tới Johnson, cả hai đều dè dặt trong quyết định dùng vũ lực tiêu diệt, ngăn chận sự xâm nhập của cán binh bộ đội, trên đường mòn HCM.

Vì không thể sử dụng bộ binh, để tránh né khỏi bị công luận thế giới và quốc hội chỉ trích, người Mỹ đã dùng các phương tiện chiến tranh khác như oanh tạc, khai quang và dùng hàng rào điện tử. Ngay cả việc sử dụng không quân để oanh tạc cũng vô cùng bí mật, lúc đầu đều do các phi công thuê của Thái Lan, Ðài Loan đảm trách. Về sau vì Bắc Việt đã được Liên Xô giúp thiết trí một mạng lưới phòng không dày đặc, với đủ các loại đại bác, hỏa tiễn tối tân 35,57 ly .. làm nhiều thám thính cơ bị bắn hạ. Vì vậy để thích ứng với hoàn cảnh, Hoa Kỳ quyết định xử dụng những phi cơ oanh tạc Thunderchiefs từ Thái Lan, cùng các phi cơ F105, pháo đài bay B52.từ căn cứ Guam, cũng như các Hàng Không Mẫu Hạm bỏ neo trên Thái Bình Dương, để oanh tạc liên tục con đường mòn HCM, trên đất Bắc, Lào-Miên và trong lãnh thổ VNCH. Riêng chủ trương của Tướng Westmoreland, tư lệnh các lực lượng Mỹ và Ðồng Minh tham chiến tại VN, thì luôn muốn dùng bộ binh, để cắt đứt đường mòn HCM ngay trên đất Lào. Nhưng ông đã bị Quốc Hội Mỹ chống đối kịch liệt vì sợ vi phạm hiệp định Geneve 1961. Ngoài ra Mỹ cũng luôn lo sợ va chạm quân sự với Trung Cộng, khi tung quân vào Lào để hủy diệt con đường chiến lược HCM. Ðây cũng là những bí ẩn trong cuộc chiến VN mới được bật mí. Năm 1968 kế hoạch vượt biên đánh sang Lào để hủy diệt đường mòn HCM, mang tên EL-PASO sắp được Quốc Hội Mỹ phê chuẩn, thì xảy ra trận Tết Mậu Thân 1968 nên chiến dịch trên đã bị hủy diệt.

12 giờ trưa ngày 30-4-1975, nhờ Tổng thống Dương văn Minh với quyền hạn của Vị Tổng Tư lệnh tối cao, ra lệnh cho QLVNCH lúc đó đang còn chiến đấu khắp các mặt trận, buông súng đầu hàng giặc. Nhờ vậy mà đoàn xe tăng của Liên Xô, chở quân cọng sản Bắc Việt, mới bon bon chạy được trên đoạn chót của đường mòn HCM, là đại lộ Thống Nhất-Sài Gòn, rồi ủi sập hai cổng sắt để vào dinh Ðộc Lập, trống trơn không có phòng thủ, lính gác.

Sài Gòn hai mươi năm dưới chế độ VNCH, gần như lúc nào cũng có biểu tình. Thế nhưng trong ngày “ vinh quang của đảng-bác “, một cơ hội vàng ròng để người miền nam tha hồ xuống đường hoan hô hòa bình, ăn mừng.Tuy nhiên mọi điều xảy ra lại hoàn toàn trái ngược, chứng tỏ người miền nam không phải ai cũng hồ hởi tin hay thân cộng, như một số báo chí thời đó đã xướng. Theo hằng trăm nhà báo ngoại quốc có mặt hôm đó, trong số này có nhiều người thân cộng, cho biết : “ trưa 30-4-1975, khi quân Bắc Việt vào Sài Gòn, đã không có cảnh người thủ đô hàng hàng lớp lớp, túa ra đường, miệng la cờ phất.. như họ từng làm qua nhiều biến cố trong quá khứ. “.Nói chung chỉ có cán bộ đảng và SD304 khăn đỏ tân lập ra chào đón quân ta về, còn dân chúng Sài đô lớp thì chạy trối chết theo chân Mỹ đi ngoại quốc, số khác lo chôm đồ .. nên có ai rãnh để mà biểu tình, xuống đường như đảng mong đợi.

Sau đó Hà Nội cho thu lượm hài cốt cán binh bộ đội đã chết trên đường mòn, tập trung làm nghĩa trang Trường Sơn, tại xã Gio An, quận Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Còn Tỉnh Uỷ Bình-Trị-Thiên thì tổ chức tour du lịch, để du khách trong và ngoài nước tới thăm mấy cái xác xe tăng Mỹ, cây cầu treo Dakrong do công binh Cu Ba làm tặng và đồi Hambuger Hill.. Riêng đường Trường Sơn tây thì bỏ hoang hoàn toàn và mới đây Lào cho phép Trung Cộng trùng tu, nối liền xa lộ Vân-Nam-Bắc Trung Lào mà tương lai con đường này sẽ thông tới hải cảng Kompong Som của Kampuchia, như năm xưa Bắc Việt đã làm.

Nay ngồi ngẫm nghĩ , mới thấy nhà văn Xuân Vũ viết “ Ðường đi tới mà không tới “ là đúng sự thật.

‘ trăng chiến khu não nùng sầu vạn kỹ

núi nghìn năm quên tuổi đứng cô đơn

đoàn quân xưa hào khí ngút mây vờn

trời quái ác làm vỡ tan tận tuyệt

.. đây còn có nhiều bạn bè Phan Thiết

đã vùi thây trong rừng lạnh tây nguyên

họ bây giờ là những cánh chim đơn

hót ảo não nơi lũng đèo khe núi.. ’ ’


Tết 2005

Xóm Cồn Hạ Uy Di

Viết nhớ bạn hiền

Cố Ðại Uý Trần Văn Thân

Trưởng Toán LLDB

Mất xác trên nhánh rẽ đương mòn HCM

Tháng chạp 1974

HỒ ÐINH-MƯỜNG GIANG

TD1/TrD43/SD18BB

Kbc 4424 3435 - 4508
http://suutamlichsu.blogspot.com/