Tuesday, September 2, 2008

Nhìn lại Hiệp định Élysée (II)

Nguyễn Văn Lục

http://suthat-toiac.blogspot.com/2008/09/nhn-li-hip-inh-lyse.html I
http://suthat-toiac.blogspot.com/2008/09/nhn-li-hip-nh-lyse-kt.html III ket

2. Diễn tiến Hiệp định Élysée

Giải Pháp quân sự nhằm tiêu diệt Việt Minh mỗi ngày một tiêu mòn hy vọng. Trong khi đó lần lượt các nước như như Phi Luật Tân, Miến Điện (Burma – DCVOnline), Nam Dương và cuối cùng là Ấn Độ, Pa kít tăng (Pakistan - DCVOnline) cũng thu hồi được độc lập.


Bước đầu, tìm một giải pháp chính trị với Việt Minh

Tình hình quân sự không sáng sủa và xu hướng giải thực tại các nước quanh vùng buộc toàn quyền Bollaert phải có một hành động cụ thể. Vì thế, ông Bollaert đã đưa ra giải pháp vãn hồi hòa bình, ngưng bắn với Việt Minh.

Trong một bài diễn văn ở Hà Nội, Bollaert đã gián tiếp nói tới một cuộc ngưng bắn một phía (trêve unilatéral) có hiệu lực vào tháng 8. Đó cũng là lập trường của De Gaulle vào năm 1948. De Gaulle không muốn nhả ra một chút xíu gì cho Việt Nam cũng như những thuộc địa của Pháp ở Phi Châu... Mọi suy nghĩ, quyết định của De Gaulle đều tiêu cực, bảo thủ. De Gaulle không nhượng bộ bất cứ điều gì và cho rắng, xứ Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp từ năm 1864. Đó là mảnh đất của nước Pháp. Đó là điều kiện yêu sách bướng bỉnh của De Gaulle. Jean Lacouture đã nhận xét về De Gaulle: Le général a bloqué les issues (Trích Ho Chi Minh, Jean Lacouture, trang 150). Đại tướng đã ngăn chặn mọi lối thoát. De Gaulle, con người hùng của ngày 18/06 còn cứng rắn hơn nói rằng: tất cả những gì làm mất đất thuộc Pháp thì sớm muộn gì kẻ đó cũng ra trước tòa án đại hình.

Nhưng khi ông Pignon lên thay thế ông Bollaert, những bế tắc khó khăn vừa kể đã có thể được khai thông. Đại sứ Mỹ Jefferson Caffery cũng cho biết ông tán đồng quan điểm của nước Pháp mở rộng hơn nữa đối với Việt Nam.

Cho nên, đối với người Pháp ở Đông Dương, chỉ có một thứ Hòa bình trong “dans le cadre de l’union francaise”. Hòa bình trong khuôn khổ liên hiệp Pháp. Để cụ thể, Bollaert cử người đại diện là ông Paul Mus bí mật gặp phía bên kia.

Paul Mus là người của De Gaulle gửi sang Việt Nam từ 1945, cố vấn cho tướng Leclerc, cho đô đốc Argenlieu và cuối cùng cho toàn quyền Bollaert. Ông đã bí mật nhảy dù xuống vùng Việt Minh trấn đóng để thương thuyết việc chấm dứt chiến tranh.


Paul Mus
Nguồn: Les Indes savantes
--------------------------------------------------------------------------------

Paul Mus đã tiếp xúc với Hoàng Minh Giám, đại diện Việt Minh và tiếp xúc bí mật với cả Hồ Chí Minh nữa. Paul Mus đưa ra một số đề nghị cho phía Việt Minh như chấm dứt tức khắc những hành động gây chiến hay khủng bố, giao nộp võ khí và để cho quân đội Pháp đi lại tự do và trao trả tù binh. Bollaert vẫn giữ liên lạc với Hồ Chí Minh và hy vọng có thể giải quyết chiến tranh trong đó không có người thắng, kẻ bại. Theo Jean Lacouture, Paul Mus đã gặp Hồ Chí Minh tại một biệt thự ở Thái Nguyên, một vùng núi đá vôi với những dốc đứng, rất dễ cho việc phòng thủ, ở cách Hà Nội 130 kilô mét. Ông có cảm tình với Việt Minh và Hồ Chí Minh. Ông cũng là tác giả 2 cuốn sách: Sociologie d’une guerre và Ho Chi Minh, Le Viet Nam l’Asie) Trong dịp gặp gỡ này, Hồ Chí Minh đã nói thẳng: Dans l’union francaise, il n’y a pas de place pour les lâches, si j’acceptais ces conditions, j’en serai un (Trích Ho chi Minh, Jean Lacouture, trang 161) Ở trong khối Liên Hiệp Pháp, không có chỗ cho những kẻ hèn nhát. Nếu tôi chấp nhận những điều kiện ấy, tôi sẽ là một trong những kẻ hèn nhát.

Thất vọng trong việc thương thuyết, từ đó Paul Mus rút lui khỏi chính trị

Phản ứng của Việt Minh qua bộ trưởng ngoại giao là Hoàng Minh Giám như sau: Độc lập mà không có quân đội và không có ngọai giao thì vô nghĩa. Hoàng Minh Giám nói thêm: Nước Pháp phải nhìn nhận một cách rõ ràng việc thống nhất và độc lập cho Việt Nam và máu của người Pháp cũng như Việt Nam sẽ không còn chảy ra nữa.

Ngày 15 tháng 9, Việt Minh trả lời chính thức những lời kêu gọi của Toàn quyền Bollaert bằng sự từ chối, vì cho là lừa bịp.

Về phía người Mỹ thì, kể từ sau thế chiến thứ hai, kẻ thù trước mặt của họ là cộng sản. Buckley, đại diện OSS đã nói thẳng với Bảo Đại rằng người Mỹ ủng hộ cho bất cứ tiến trình nào đưa tới nền độc lập cho Việt Nam, chỉ với một điều kiện mà thôi: không có người cộng sản trong đó. Vào năm 1946, Trưởng Giới Thạch đã nhờ người Mỹ qua Marshall để “mua Bảo Đại” với dollars, từ đó thiết lập một liên minh chống Cộng Sản nối dài từ Trung Hoa sang Việt Nam. Bảo Đại lúc bấy giờ vẫn còn là con số không, không đồng xu dính túi, vì người Pháp còn vươn tay ra mong muốn nói chuyện với Việt Minh. Vậy mà Bảo Đại đã nói KHÔNG với Marshall. Tại sao Bảo Đại nói không? Trong Hồi ký của ông, ông không nhắc tới truyện này. Giả dụ Bảo Đại nói có thì tình thế Việt Nam chung cuộc sẽ ra sao? Mặc dầu vậy, Mỹ đã viện trợ cho Pháp khoảng 80% tổn phí chiến tranh Việt Nam kể từ 1950-1954. Mỹ chi viện cho Pháp 500 triệu đô la mỗi năm để mua súng tự động, tàu chiến, dụng cụ y khoa qua trung gian cơ quan American Military Assiatance Advisory Group (MAAG). Riêng năm 1953, do sự đòi hỏi của Pháp, Mỹ viện trợ thêm 385 triệu mỹ kim cho kế hoạch Henri Navarre nhằm bắt buộc Việt Minh phải xuất đầu lộ diện, đánh trận địa chiến thay vì du kích chiến.

Sự viện trợ cho Pháp của người Mỹ rõ ràng coi cuộc chiến tranh Đông Dương là thứ chiến tranh mang thứ tên mới: chiến tranh ý thức hệ.


Diễn tiến đổi chiều

Phần Bollaert cho thấy rằng lá bài Hồ Chí Minh không thể tin tưởng được nữa. Ngày 15/05/1947, toàn Quyền Bollaert đến Hà Nội và cho thấy là người Pháp sẵn sàng trao trả độc lập cho Việt Nam trong khối Liên Hiệp Pháp. Ông tuyên bố không thương thảo riêng với bất cứ đảng phái nào (ám chỉ Việt Minh) mà chỉ thương thảo với một người đại diện duy nhất là Bảo Đại.

Lá bài Bảo Đại đã thành hình và nay có giá trong bối cảnh chính trị như vậy.

Phần Việt Minh họ có bỏ lỡ cơ hội tiến tới hòa bình không trước khi có giải pháp lá bài Bảo Đại không? Thật sự mà nói, về phương diện lý thuyết, họ tranh đấu cho một lý tưởng cộng sản quốc tế mà chiêu bài dân tộc chỉ là một cách tuyên truyền nhất thời và có hiệu quả. Cho nên, khó có thể nói tới một sự ngưng bắn, sống chung hòa bình trong khuôn khổ Liên Hiệp pháp?

Họ nhằm một mục đích cao hơn những đề nghị mà Bollaert có thể dâng cho họ.

Nay thì ông Bollaert đã nói với Bảo Đại rằng, thỏa ước Vịnh Hạ Long cần được tôn trọng và xin mời Ngài về Việt Nam để nắm lấy quyền hành. Và nếu ông Hồ Chí Minh muốn thương thảo gì với người Pháp, chính Ngài là người mà họ sẽ phải thương thảo.

Vì thế, Bảo Đại là giải pháp cuối cùng mà người Pháp hy vọng ở ông. Đã đến lúc Bollaert và Bảo Đại tìm gặp nhau. Và hai người đã gặp nhau vào ngày 6 tháng 12, 1948. Hiệp định Éysée sau đó đã được ký kết giữa Bảo Đại và người Pháp.

Nói tóm một điều là trong cuộc đánh bạc này, Bảo Đại đã đòi hỏi được hai điều mà Hồ Chí Minh phải mất nhiều công sức cũng không đạt được. Đó là việc thống nhất ba kỳ và độc lập cho Việt Nam mà Hồ Chí Minh trước đây đã thất bại cay đắng không đạt được tại hội nghị Fontainebleau.

Bảo Đại hãnh diện viết: “Le Viet Minh n’est donc plus dans la course”. Việt Minh không còn có vai trò nào trong cuộc chạy đua này nữa. (Hồi ký Bảo Đại, trang 183).

Phần Bảo Đại, ông vẫn quyết liệt từ chối tất cả việc về nước nếu trong tay không có một đảm bảo quyền độc lập và thống nhất cho cho Việt Nam.

Và ngày 5 tháng 6, 1948, ông Bollaert, đại diện cho nước Pháp và đại tướng Nguyễn Văn Xuân, đại diện Bảo Đại đã ký một bản tuyên bố chung tại vịnh Hạ Long, trong đó cả hai bên đồng ý:

Nước Pháp nhìn nhận một cách long trọng nền độc lập của Việt Nam. Về phía Việt Nam công nhận sát nhập vào vào Liên Hiệp Pháp với tư cách một quốc gia hội viên, hợp tác với Pháp.

Nền độc lập của Việt Nam chỉ còn tùy thuộc vào một điều kiện là ở trong Liên hiệp Pháp.

Việt Nam chấp nhận tôn trọng những quyền lợi của người Pháp ở Việt Nam và bảo đảm tôn trọng các nguyên tắc dân chủ và sẵn sàng hợp tác với các cố vấn Pháp cho nhu cầu kinh tế và nội địa của Việt Nam.

Sau khi đã thiết lập được một chính quyền tạm thời thì đại diện hai bên sẵn sàng dàn xếp cho các vấn đề văn hóa, ngoại giao, quân sự, kinh tế, tài chánh và kỹ thuật.

Ông Bảo Đại và người Pháp đều hài lòng về tiến trình trao trả độc lâp và thống nhất cho Việt Nam. Nhưng chính Bảo đại cũng nhìn nhận: Je suis assez satisfait Certes, ce n’est pas le succès total, et en fait, il n’y a rien de définitif. Mais J’ai obtenu ce qui avait éte réfusé au Viet Minh. Les mots d’indépendance et d’unité ont été officiellement enregistrés (Trích Bảo Đại, trang 204) tạm dịch: “Tôi cũng tạm hài lòng. Chắc chắn đây không phải là một thành công hoàn toàn, vì vậy chưa có gì là chắc chắn. Nhưng tôi đã đạt được điều mà Việt Minh bị người Pháp từ chối. Những chữ độc lập và thống nhất đã được chính thức ghi nhận.”

Lập trường người Pháp là rõ rệt, chỉ thương thảo chính thức với Bảo Đại mà không với Hồ Chí Minh. Nhưng trên thực tế, thái độ người Pháp như thế có thể nào là nguyên do đưa tới bế tắc mọi con đường đưa tới ngưng bắn và hòa bình với Việt Minh không?

Trên thực tế, ở Sàigòn, chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân không có quyền hành gì cả. Không có tiền, không có quân đội, không có cảnh sát. Mọi truyện đều lệ thuộc vào nền hành chánh của Pháp cả. Việt Minh có cớ để nói rằng thủ tướng Nguyễn Văn Xuân chỉ là thứ tay sai nằm trong tay người Pháp.


Mao Trạch Đông làm chủ Bắc Kinh

Và mọi diễn biến liên quan đến hiệp định Élysée đã thay đổi đột ngột. Mao Trạch Đông đã vào Bắc Kinh ngày 22 tháng giêng 1949. Đó là sự đe dọa trực tiếp của Mao Trạch Đông đối với người Pháp ở Việt Nam.

Mối lo ngại của người Pháp đối với diễn biến xảy ra ở biên giới Việt Trung có lý do của nó: Hà Nội có thêm vây cánh.

Một Ủy ban hỗn hợp của Pháp đã thành hình vào ngày 12 tháng Hai để nghiên cứu những vấn đề đã được thỏa thuận giữa Pháp và Việt Nam tại vịnh Hạ Long. Phía người Pháp có ông M. Herzog, trưởng phái đoàn cùng các ông Marolles, Pereyra, Raymond, Risterruci. Thêm vào đó là các chuyên viên như Gonon về tài chánh, Anziani về kinh tế, Torre về kế hoạch, Dannau về vấn đề văn hóa và đại tá Brébisson về các vấn đề quân sự.

Và sau đó thì hiệp định Elysée đã được ký kết giữa Bảo Đại và tổng thống Sauriol.

Bảo Đại quyết định về nước. Và cũng như người Pháp, ông lo ngại sự xuất hiện của quân đội Mao Trạch Đông đang rình rập ở phía Bắc.

Phải chăng, việc Mao Trạch Đông xuất hiện ở phía Bắc như một mối đe dọa đã là nguyên cớ cho sự ra đời Hiệp định Elysée? Một phần là như vậy.

Ngày 8 tháng 3, 1949, một buổi lễ ký kết long trọng đã được tổ chức tại điện Elysée giữa Tổng Phống Pháp Vincent Auriol và cựu hoàng Bảo Đại. Ngoài Tổng thống Pháp còn có Thủ tướng Queuille và một số bộ trưởng Pháp tham dự. Phía Việt Nam, bên cạnh cựu hoàng Bảo Đại còn có quý ông Hoàng thân Vĩnh Cẩn, Hoàng thân Bửu Lộc cùng với hai ông Trần Văn Hữu và Nguyễn Mạnh Đôn.

Bản Hiệp định này rất quan trọng vì lần đầu tiên Việt Nam được độc lập và thống nhất lãnh thổ, trong đó Nam Kỳ được trả về cho Việt Nam. (2)

Giải pháp Bảo Đại được đón tiếp nồng hậu vì Nam phần đã được trả về cho Việt Nam.

Nhưng tình hình chính trị và quân sự giữa Nam phần và Bắc phần có sư khác biệt lớn. Ở Nam phần: yên tĩnh và ổn định. Nơi đây tướng Boyer de Latour với con số 35 ngàn lính chính quy cộng với khoảng 20 chục ngàn dân vệ, còn lại là lính của Cao Đài, Hòa Hảo. Vậy mà xem ra áp lực của Việt Minh không đáng kể so với Bắc phần và Trung phần. Chiến thuật của đại tướng Latour là xây dựng các đồn bót dọc theo các quốc lộ để giừ an ninh và liên lạc với quân đội.

Cho nên, nếu chỉ có Nam Phần thì người Pháp chắc không cần đến một thứ Hiệp định Elysée như thế.

Ở đây, có thể nói đó là cuộc chiến của các đồn bót (Guerre des postes). Mối giây liên lạc sống còn là tầm yểm trợ của súng đại bác tới các đồn bót và một máy vô tuyến điện. Mất liên lạc vô tuyến kể như đồn bót ấy bị mất.
Đó là một cuộc chiến không ranh giới và dai dẳng chắc không phải chỉ ở phía Nam mà còn ở phía Bắc nữa.

Cho nên cuộc chiến này phần thắng bại được quyết định từ phía Bắc. Ai làm chủ miền Bắc thì thắng lợi về phía đó.

Vì thế, các địa danh như Hòa Bình, Lạng Sơn, Cao Bằng, Na Sàn ở phía Bắc sẽ là những yếu tố quyết định để buộc người Pháp tìm ra một giải pháp cho chiến tranh Việt Nam: giải pháp Bảo Đại


Giải Pháp Bảo Đại

Tuy nhiên, thủ tục để đạt được Hiệp định này thật là khó khăn vì chính phủ Pháp phải thành lập một Quốc Hội địa phương tại Nam Kỳ gồm cả đại diện Pháp và Việt Nam. Kết quả bỏ phiếu là có 25 phiếu chống sát nhập và 25 phiếu thuận sát nhập. (3)

Nghe tin xấu này, cựu hoàng Bảo Đại đã hủy chuyến bay không về nước nữa.

Chính phủ Pháp phải cử cấp tốc ông Pignon bay sang Sài Gòn. Đến ngày 23 tháng tư, Quốc hội địa phương họp để bầu lại. Kết quả lần này có 45 phiếu thuận cho sát nhập Nam Kỳ về cho Việt Nam và chỉ có 5 phiếu chống.

Với thành quả đó coi như chính phủ Pháp đã trao trả độc lập cho Việt Nam và đất nước từ nay đã được thống nhất.

Sau đó, Bảo Đại mới quyết định đáp máy bay về nước sau 3 năm xa cách.

Đến ngày 13, 14, 15 tháng 06, 1949, Bảo Đại xuống Sài Gòn để chủ tọa ba ngày lịch sử này. Chúng tôi xin tóm tắt giới thiệu đến độc giả những tài liệu về biến cố này như các bài tường thuật, các bài diễn văn của Bảo Đại cũng như của Thủ tướng hay các đại diện Pháp ở Việt Nam. Đồng thời cũng xin giới thiệu vắn tắt diễn tiến của bản Hiệp định cũng như nội dung của bản Hiệp định 08/03 thống nhất đất nước mà đảng Cộng Sản Việt Nam đã cố tình lờ đi không nhắc tới.

Khi Bản Hiệp định được ký kết thì Hồ Chí Minh gay gắt gọi Bảo Đại là bọn “bù nhìn” (fantoche), lên án tử hình thủ tướng Xuân đồng thời gia tăng khủng bố và ngay cả chôn sống người .

Thật vậy, trong lịch sử tranh đấu dành độc lập cho Việt Nam trong thế kỷ 20, có đến hai lần chính phủ Việt Nam tuyên bố độc lập. Nhưng người Cộng Sản chỉ nhắc và ăn mừng Bản Tuyên Ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 do Hồ Chí Minh đọc tại Ba Đình mà không hề nhắc tới, trước đó, lần đầu tiên, Bảo Đại đã tuyên bố Việt Nam độc lập và thống nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945, khi có cuộc đảo chính của Nhật. Nội dung câu tuyên bố của Bảo Đại được ông Trần Trọng Kim nhắc lại như sau:


Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong Hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên Bộ Thượng Thư đã tiêu hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải đóng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó mọi việc. Trước kia, người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta . Vây nên ông nên vì nghĩa vụ cố thành lập một chính phủ để lo việc nước
(Trích Một cơn gió bụi, Lệ Thần Trần Trọng Kim, nxb Vĩnh Sơn, 1969, tr 490)

Trong ba ngày lịch sử đón tiếp cựu hoàng bảo Đại, bài diễn văn của ông Tổng trấn Trần Văn Hữu xác nhận:


Nhờ sự bền chí vững lòng của Hoàng Thượng mới có tờ Hiệp Ước vịnh Hạ Long, ngày 5 tháng 6, 1948. Đó là lần thứ nhứt Pháp quốc nhìn nhận sự độc lập nước Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp.

Cũng nhờ sự kinh nghiệm quang minh của Hoàng thượng mới nảy ra tờ ký kết ở điện Élysée, ngày mồng 8 tháng 3 dương lịch 1949. Trong ấy, chính phủ Pháp giao ước sẽ nhường quyền cho Việt Nam các quyền hành về chính trị, kinh tế, lý tài, binh bị, ngoại giao của một nước độc lập
.


Bài diễn văn của ông Cao Ủy Pignon cũng nói đến:


Một hành động to tát vừa hoàn thành, chúng ta đang đứng trước một xứ Nam Kỳ mới. Tâu Hoàng Thượng, ngày mai chúng ta sẽ chia nhau những điều chua chát và những sự tỉnh ngộ, nhưng tôi có thể bảo đảm cùng Hoàng Thượng rằng sự tin chắc được đi trên con đường của chơn lý và công lý cùng với sự quên hết các quyền lợi riêng, đủ để duy trì ý chí cương quyết, một điều kiện bực nhứt cho sự thắng lợi chung. Chúng ta đã có sẵn, với Hiệp ước 8 tháng 3, một khí cụ có thể giải quyết thỏa mãn các vấn đề nguyên tắc chủ yếu. Bây giờ đến những sự thật hiện mà chúng ta phải lo lắng với tất cả cương quyết, sáng suốt và thiện ý của chúng ta.


Bài diễn văn của cựu hoàng Bảo Đại tóm tắt những ý chính như sau:

Hiệp Định 8 tháng 3, 1949 mà tôi đã ký cùng Tổng Thống Auriol có thể coi là bản khai sinh cho nước Việt Nam độc lập. Ngày nay, mọi việc xảy ra trong thế giới nhiều khi vượt quá giới hạn một quốc gia, để ứng hợp với tình hình quốc tế mới, nước Việt Nam nhận gia nhập khối Liên hiệp Pháp để chung phần vào một vận mênh lịch sử cao cả hơn vận mệnh của một dân tộc. Và tôi lại xin xác nhận thêm rằng quyền lợi chính đáng của Liên Hiệp Pháp ở Việt Nam sẽ được tôn trọng.


Riêng công điệp của Tổng Thống Cộng Hòa Pháp quốc gửi Hoàng Đế Việt Nam có những điều căn bản sau đây:

Nước Pháp, một lần nữa, long trọng tuyên bố quyết định không cản trở việc xứ Nam kỳ trở lại lãnh thổ Việt Nam bằng bất cứ phương tiện pháp lý hoặc hành động nào. Lãnh thổ đó gồm các địa hạt Bắc kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ... Nước Việt Nam có quyền điều đình và ký kết những hiệp định về quyền lợi của mình. Nước Việt Nam có quân đội quốc gia, nhiệm vụ là giữ gìn an ninh nội bộ và bảo vệ lãnh thổ Việt Nam. Các ngạch sĩ quan Việt Nam sẽ do các trường quân sự Việt Nam và cũng có thể do các trường quân sự Pháp đào tạo. Nước Việt Nam có toàn quyền xét xử các việc tố tụng về dân sự, thường sự và hình sự trên toàn thể lãnh thổ quốc gia.


3 ngày đón tiếp Bảo Đại tại Sài Gòn 13, 14, 15 tháng 6, 1949


Bảo Đại về Sài Gòn
Nguồn: sss
--------------------------------------------------------------------------------

Người viết xin mượn những dòng sau đây tóm tắt quang cảnh đón tiếp Bảo Đại và công phu chuẩn bị của người Pháp ra sao, đồng thời nhận xét thái độ, con người Bảo Đại trong những ngày này qua bài viết của Lucien Bodard trong La guerre d’Indochine, từ trang 151-157

Trước khi về Sài Gòn, Bảo Đại ở Cannes (gia đình Hoàng hậu Nam Phương và con cái ở đây) “rảo qua” các sòng bài Casinos, bên cạnh có Cousseau tháp tùng. Trong khi đó ở Sài Gòn, Cao Ủy Pignon, Bonfils lo tíu tít, mất ăn mất ngủ, chuẩn bị đủ thứ: tăng cường an ninh, cờ quạt, trang hoàng, chỗ ăn ở phái đoàn khắp nơi Bảo Đại đi qua. An ninh súng liên thanh cầm tay đứng dày đặc, đội kèn trống chuẩn bị, đội quân danh dự, quần áo chỉnh tề.Từng chi tiết một không thể thiếu xót. Phải xem xét, sửa đi sửa lại bài diễn văn phải đọc trong bối cảnh biệt ngữ pháp lý-chính trị Jargon Juridico-polique. Mỗi chữ, mỗi dòng phải cân nhắc như là một trận chiến ngôn từ để vừa lòng mọi người, giữa hai bên Việt Nam-Pháp, rồi Cao Mên, Lào và cuối cùng cả bốn bên. Những chuyên viên đã làm hết sức mình và nay chỉ còn chờ ký vào là xong.

Rồi cuối cùng Bảo Đại cũng sửa soạn hành lý sẵn sàng trở về từ miền Địa trung hải (Côte d’Azur) để nắm quyền điều khiển quốc gia Việt Nam. Ngày 24/04/1949, Bảo Đại lên đường trở về nước. Bốn ngày sau, ngày 28, Bảo Đại từ Singapore về tới Sài Gòn, nhưng lên thẳng Đà Lạt. Lý do về Đà Lạt, vì ông muốn chứng tỏ “lịch sự” với người Pháp, vì Sài Gòn vốn vẫn còn là thuộc địa của Pháp. (4)

Trên chiếc phi cơ trở về đây nắm quyền hành, ông chỉ như một người khách lạ, dáng mệt mỏi, lãnh đạm. Người ta chỉ nhìn thấy ở ông ấy trong bộ âu phục mầu trắng, đôi kính mát to bản che mất một phần mặt, cộng cái nón thực dân (casque colonial) Cả con người đó biểu hiện một người ngoài cuộc với bộ măt mập phì, tròn, môi dày, mũi hơi xẹp, đôi vai thẳng như một hình nhân tượng.

Ông ta bước những bước đầu tiên trên sân bay như một người máy, chẳng thèm ngó mắt nhìn bất cứ ai. Hình như ông không để ý dến những chức sắc Việt Nam, những vị bô lão trong chiếc áo dài đen cổ truyền đang khúm núm cúi lậy hay đến những đội quân danh dự đang đứng cứng người nghiêm chào ông ta. Vào bên trong, viên Cao Ủy trân trọng đọc một bài diễn văn đón chào mà mỗi câu đều không quên kèm theo hai chữ thưa Hoàng Thượng, “Sire”.

Đáp từ, Bảo Đại nói bằng một giọng mất tiếng, uể oải gần như sấc sược.

Diễn biến quan trọng lịch sử như thế chỉ xảy ra trong vài phút. Không bắt tay, không nụ cười, không hỏi han bất cứ ai.Tout est fini. Mọi chuyện hoàn tất. Bảo Đại chui vào một chiếc xe Limousine to lớn phóng nhanh về biệt điện của ông ta.

Như thể ông ta về đây vì việc riêng và để rồi biến mất.

Sau buổi lễ, tôi có cảm tưởng mọi diễn biến xảy ra như có vẻ không thật và cái cảm giác có vẻ không thật ấy kéo dài trong tâm trí tôi.

Tôi hỏi hai “cố vấn” bên cạnh Bảo Đại là Cousseau và Faugère có hy vọng gì một giải pháp Bảo Đại? Họ trả lời một cách gượng gạo:

Thật không phải là dễ.

Phần Pignon thì vẫn tỏ ra hăng hái và quyết tâm về một thắng lợi trong tương lai.

Nhưng cái thật bại lớn nhất của giải pháp Bảo Đại là dân chúng Nam Kỳ tỏ ra hững hờ. Ngày độc lập và thống nhất đất nước mà như thể xảy ra một cách âm thầm chỉ liên quan đến Bảo Đại. Họ vẫn sống như mọi ngày như thể.không có gì thay đổi.

Phần ông Ngô Đình Diệm như đã nói ở trên, ông Diệm nhận ra rằng, tất cả những nỗ lực của ông nhằm can gián Bảo Đại đều tỏ ra vô vọng. ông yêu cầu Bảo Đại thực hiện những điều mà người Anh đã thừa nhận cho Ấn Độ và Pakistan. Một nền tự trị trong khối Liên Hiệp Anh.

Việc thực thi giải pháp Bảo Đại làm ông Diệm cực kỳ thất vọng. Cho nên vào ngày 16 tháng 6 năm 1949, ông Diệm cho phổ biến một bản tuyên cáo trong đó ông phủ nhận Hiệp định Élysée và nhắc lại đòi hỏi căn bản của ông là: một quyền tự trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

Bản tuyên bố của ông Diệm cho thấy ông cắt đứt mọi mối liên hệ hợp tác với Bảo Đại mà cả với Việt Minh.

Như nhận xét sau đây của Trần Thị Liên: “Diệm prit donc ses distances à l’égard de la solution Bao Dai. Les déclarations de Diem dans” l’ Écho du Viet Nam”, reproduit dans le journal “Tinh Thần”, furent l’objet de commentaires sévères du cabinet de Bao Dai qui craignait que les subsides des Francais ne permettent à Diem de développer sa propagande dans les milieux catholiques”. (Trích Trần Thị Liên, như trên trang, 203)

Diệm không chấp nhận giải pháp Bảo Đại. Văn phòng của vua Bảo Đại đưa ra những lời bình luận khá gay gắt nặng nề về những lời tuyên bố trên vì sợ rằng những số tiền viện trợ của Pháp cho phép Diệm tuyên truyền trong giới công giáo.

Bản tuyên bố phản đối Hiệp định Éysée của ông Ngô Đình Diệm đã hẳn khác với nội dung và mục đích của Việt Minh.

Tuy vậy bản tuyên bố đó đã không ảnh hưởng tác hại gì đến “giải pháp Bảo Đại” theo như tác giả Edward Miller đã nhận định trong bài viết: “Viễn kiến, quyền lực và tính chủ động: Con đường lên nắm quyền của Ngô Đình Diệm 1945-1954 (Hoài Phi, Vi Huyền chuyển ngữ, Talawas, 2007).

Theo Edward Miller, hiệu quả thực tế lớn nhất của nó là chấm dứt sự kiên nhẫn của người Pháp lẫn Việt Minh trong việc tìm cách lôi kéo ông Ngô Đình Diệm.

Kết quả là chẳng bao lâu sau, ông buộc phải cân nhắc những chiến lược khác và đi tìm những đồng minh khác. Giải pháp đó là:


Par ailleurs il comptai sur l‘aide Américain pour soumettre l’affaire devant l’ONU pour obtenir l’indépendance. Mais dés juillet 1947, Ngô Đình Diệm dut se rendre à l’évidence que la situation internationale n’aiderait pas à la réalisation de son projet.
(Trích AOM INDO GG CP Suppl. 23: BR n*2106/2 daté du 9/5/1947. Saigon, le 28/05/1947. Activités du Comité de Gérance dans les provinces libérés de l’ Annam, trích lại Trần thị Liên, trang 193).

Đằng khác, ông tính dựa vào sự giúp đỡ của người Pháp để đưa vấn đề độc lập cho Việt Nam ở Liên Hiệp Quốc. Nhưng từ tháng 7 năm 1947. Ông Diệm nhìn ra sự thực hiển nhiên là tình hình quốc tế sẽ không giúp ích gì cho ông ta trong việc thực thi chương trình của ông.

Dù gì đi nữa thì vào năm 1954, Ngô Đình Diệm trở thành người của những giải pháp cuối cùng khi không còn giải pháp nào nữa (ultime solution). Như trong lời nhận định của J. Dallos trong La guerre d’Indochine, 1945-1954, Collection Point Seuil, Paris, 19876, trang 211-212 như sau: “Il a montré à la classe politique Parisienne la faiblesse de Bao Dai au sein même des milieux anti-Viet Minh, la constituition d’un clan proaméricain.” Nó chứng tỏ cho thấy giới chính trị ở Paris về sự yếu kém của Bảo Đại ngay đối với những người cùng chống Việt Minh như ông ta. Và từ nay đã thành hình một phe thân Mỹ.

(Còn tiếp)
© DCVOnline
--------------------------------------------------------------------------------


DCVOnline:
(2) Hiệp định Élysée ký kết giữa TT Pháp Vincent Auriol và Bảo Đại ngày 08/03/1949 chỉ có hiệu lực sau khi Nam Kỳ (Republic of Cochinchina, nước Cộng hoà Nam Kỳ - từ 01/06/1946) ) sát nhập vào lại Việt Nam. Tháng Ba 1949, Quốc hội Pháp làm luật tạo ra “quốc hội thuộc địa Nam Kỳ” để biểu quyết “sát nhập” Nam Kỳ vào Việt Nam. Cuối tháng Ba 1949, chính phủ Nam Kỳ đưa thư từ nhiệm cho Bảo Đại, chấm dứt cuộc thử nghiệm chia cắt (để trị - DCVOnline) của d’Argenlieu. (The Indochinese Experience of the French and the Americans, Arthur J. Dommen, Indiana University Press, 2001, trang 188).

Với hiệp định Élysée (Việt Nam “thống nhất và độc lập trong liên hiệp Pháp”) Pháp không trao trả bất cứ quyền kiểm soát nào về quân đội, ngoại giao và cả tài chánh cũng như trì hoãn xếp đặt tất cả những thay đổi ở mọi mặt để Việt Nam tự trị. (The Pentagon Papers, Gravel Edition, Chapter 2, “U.S. Involvement in the Franco-Viet Minh War, 1950-1954”, Boston: Beacon Press, 1971, Section 1, pp. 53-75).

Hiệp định Élysée còn cho Pháp toàn quyền quyết định sử dụng quân đội Việt Nam khi có chiến tranh.

Mâu thuẫn của hiệp định Élysée – Việt Nam chấp nhận liên hiệp với Pháp trong Liên hiệp Pháp nhưng quy chế tổ chức Liên hiệp Pháp lại do Hiếp pháp của Cộng hoà Pháp đơn phương quyết định. Marie-Thérèse Blanchet, nhân viên ban Luật pháp của quân đội Pháp tại Đông dương, tác giả cuốn La Naissance de l’Etat Associé du Viet-Nam (Paris: Edition M.-Th. Genin, 1954), trang 90-91) viết:

Quy trình sai sót (hiệp định Élysée – DCVOnline) đưa đến việc trong cùng một văn bản vừa xác nhận Việt Nam độc lập và đồng thời đặt để giới hạn của nền độc lập này tạo ra những mơ hồ hỗn độn lớn nhất.

Liên hiệp Pháp không phải là một liên hiệp bình đẳng giữa các quốc gia thành viên nhưng là một liên hiệp dưới quyền lãnh đạo của Tổng thống Pháp. (The Indochinese Experience of the French and the Americans, Arthur J. Dommen, Indiana University Press, 2001, trang 214).

Đến năm 1953, hơn 4 năm sau khi ký kết hiệp định Élysée, trong môt bài báo tên tờ New York Times, 17/07/1953, Tillman Durdin cho hay Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm (chính phủ Bảo Đại), khi nghiên cứu văn bản hiệp định Élysée, đã nhấn mạnh một số đoạn cần thay đổi hay loại bỏ. Một thí dụ, trong phần quy định về chính sách ngoại giao của quốc gia Việt Nam: “phải được xem xét và điều hợp dưới sự chỉ đạo và trách nhiệm của Chính phủ Cộng hoà Pháp” (examined and cordinated under the direction and responsibility of the Government of the French Republic). Và ngay cả các trưởng phái đoàn ngoại giao tại Việt Nam phải đồng thời được tổng thống Liên hiệp Pháp chấp nhận. (The Indochinese Experience of the French and the Americans, Arthur J. Dommen, Indiana University Press, 2001, trang 216).

Quốc gia Việt Nam (l’Etat Associé du Viet-Nam, State of Vietnam), vẫn theo hiệp định Élysée, không phải là 1 vương quốc hay 1 nước cộng hoà, không có quốc hội dân cử, không có cả hiến pháp. Đây là ao ước không thành của Bảo Đại – Đến tháng mãi tháng Tư 1953, Bảo Đại vẫn còn đưa bí thư riêng là Trần Văn Tài bí mật sang Pháp nghiên cứu những bản dự ảo hiến pháp (The Indochinese Experience of the French and the Americans, Arthur J. Dommen, Indiana University Press, 2001, trang 217).


Bảo Đại
Nguồn: Getty Images
--------------------------------------------------------------------------------

1953, vấn đề độc lập vẫn còn nằm trên nghị trình chính trị Việt Nam. Để giải thích, Thủ tướng Joseph Daniel, ngày 03/07/1953, nói sự chậm trễ này cần thiết để “hoàn mỹ hoá” nền độc lập và chủ quyền cho Việt Nam. Tổng thống tương lai của Pháp, Francois Mitterrand, đã phản pháo “Từ năm 1949 đến nay chúng ta đã trao trả nền độc lập cho Việt Nam cả thảy 18 lần. Đã đến giờ chúng ta trả độc lập cho Việt Nam một lần nữa và phải là lần chót.”

“Hoàn mỹ hoá độc lập” chỉ là chiến thuật trì hoãn của Pháp, như De Gaulle đã tuyên bố trong cuộc họp báo ngày 17/11/1948, “con đường đúng để áp dụng ở Đông Dương bây giờ là không làm gì cả. Chúng ta phải biết mua thời gian.”

Vì các chính khách có tên tuổi đều tránh né, ngày 11 tháng Giêng, 1954, Bảo Đại đã phải cử hoàng thân Bửu Lộc làm Thủ tướng. Thủ tướng Bửu Lộc cũng chỉ kéo dài được 6 tháng. Ngày 3 tháng Ba 1954, phái đoàn của Bửu Lộc sang Pháp tìm “nền độc lập thật” cho Việt Nam. Đã quá trễ. Trước tình hình Điện Biên Phủ, ông đã ở lại luôn bên Pháp. Bảo Đại cũng thế, đã lên đường tìm “nền độc lập thật” cho Việt Nam ngày 10 tháng Tư và ở luôn tại Pháp. (Trích The Last Emperors of Vietnam: From Tu Duc to Bao Dai, của Oscar Chapuis, nxb Greenwood Publishing Group, 2000).

(3) Theo The Indochinese Experience of the French and the Americans, Arthur J. Dommen, Indiana University Press, 2001, trang 188, cuộc biểu quyết ở quốc hội Nam Kỳ ngày 23 tháng Tư có 55 phiếu thuận trên 63 thành viên có mặt (tổng số là 64).


Toà Đô Chính Saigon
Nguồn: blogger.com
--------------------------------------------------------------------------------

(4) Thứ nhất, Cao uỷ Pháp (Leon Pignon – DCVOnline) cự nự không cho dùng dinh Norodom là lý do Bảo Đại lập bản doanh tại Đà Lạt (The Indochinese Experience of the French and the Americans, Arthur J. Dommen, Indiana University Press, 2001, trang 191). Thứ nhì, ngày 14 tháng 6, 1949 buổi lễ đón tiếp Bảo Đại và cũng là dịp để Quốc trưởng Bảo Đại nhấn mạnh những “nét Việt Nam” của hiệp định Élysée đã tổ chức tại Toà Đô chính chứ không phải tại Dinh Norodom – Pháp “lễ phép” không giao lại Dinh Norodom cho Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam. (The Indochinese Experience of the French and the Americans, Arthur J. Dommen, Indiana University Press, 2001, trang 189).

http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=5426






Re: Nhìn lại Hiệp định Élysée (II)
2008-09-02 00:28:43
LaGiang


Bác Ho Hui,

A.- Vấn đề không đơn giản như thế:

1.- Ngày từ đầu BĐ đã lỡ làng trao kiếm cho HCN. Cái chết là đây trên phương diện danh chánh ngôn thuận.

2.- Pháp có một chính trị vòng vo. Tại sao lại đi thương thuyết với HCM. Tự nhiện cho HCM làm đại diện của VN? Rồi tới thương thuyết với Bảo Đại? Pháp không bao giờ thành thật với VN. Ngay sau nầy nữa. Một mực phá. Phá qua đuờng Campuchia.

3.- Truớc năm 1949. HCM không có thế thắng. Nhưng khi Tuờng Giới Thạch thua tại Hoa lục. Thế thắng đã rõ.

4. Chính có ẩn ý. Nên mãi tới thời De Lattre De Tassigny mời có việc dùng quân VN! Chậm qúa.

5.- Nói chung lúc đầu Pháp đã lầm lẫn xem chiến tranh là một hành quân cành sát. Sau nầy Mỹ xem có thề thắng CSVN trong vòng hai năm.

B.- Vấn đề không thề cắt nghiã như câu nói sau đây:

"lại thiếu cả dã tâm nên (hình như) đã sẵn sàng "thoả hiệp" với Hà Nội để tránh cảnh Huynh Đệ Tương Tàn . Từ việc "chống" lại ý muốn của Mỹ đến việc có ý thoả hiệp với "phía bên kia" nên ông và ngưòi em đành nhận cái chết tức tưởi . "

1.- Ông Nhu có gặp Tạ Quang Bửu hay Tạ Thu Thâu ( sẽ kiềm chứng lại sau) tại một cánh rừng và không đi tới đâu cả.

2.- Có lẽ là chiến thuật dùng để làm nhẹ áp lực ngang tàng của Mỹ thì đúng hơn. Chứ TT Diem có bao giờ có ý định thương thảo vời HCM.

3.- TT Diệm hay ông thánh nào đi nữa sẽ không thể sống trong hoàn cảnh hối ầy:

3.1.- Cái ngây ngô và ngông cuồng cũng như dốt đặc của nhóm Harrimann và Hilsman tại WA.

3.2.- Toàn khối CS có ý định dùng VN làm điểm thi thồ

3.3.-VN qúa lệ thuộc vào quân viện. Một thứ quân viện khi nắng khi mưa.

4.- VN hồi ấy là một ván bài quân sự. Pháp và Mỹ đều thua ván bài nầy.

C. CÓ MỘT VÁN BÀI NĂM 1954

1.- Lúc ký hiệp định Genève năm 1954. Chu Ân Lai có ngõ ý với đại sửa Luyện về việc lập bang giao với Miền Nam và vận động cho cả Bắc và Nam vào LHQ.

2.- TT có tham khảo với Tuởng Giới Thạch. Và bị bỏ qua.

3.- Nhưng nếu hối giải pháp ấy qúa sớm để Mỹ chịu: Cã Mỹ và Trung Cộng bang giao với miền Nam. Tuy một ván bài đầy nguy hiềm.

4. Thỏa uớc Thuợng Hải năm 1972 là Mỹ đi đôi với Trung Công chống Nga. Nếu sự kiện ấy xảy ra vào hồi năm 1954 thì tình thế tại miền Nam có lẽ không bi thảm như thế.

5.- Trung Cộng luôn muốn VN chia đôi. Cái nút chính là đó. Chính năm 1975. TC phải tấn công trong vòng 72 tiếng để giữ lực luợng Bắc Việt tại Bắc. Mãi tới 1979 mới tấn công. Nếu miền Nam khai thác chiến luợc ấy của TC. Không chắc là HCM đã có quân viện của TC để đáng miền Nam. Trong khi Nga của Krouchev chẳng ngó ngàng gì tới VN. Năm 1956 chính Nga cũng đống ý không có tổng tuyển cử tại VN.

Re: Nhìn lại Hiệp định Élysée (II)
2008-09-02 01:27:20
LaGiang


Bác triếtlýgia0001 trà lời tui nghe!

Từ truớc tới nay, từ 1930 tơi nay, có lúc nào một phần của VN đã đuợc sống thanh bình và dân chủ hơn đời TT Diệm? Tuy ngắn. Nhưng đã tạo được một hính ảnh đi vào sách sử của vinh quang.

Còn ông Hồ sống dai và "ĐẠI KHÔN NGOAN" đã dẫn nuớc tới đâu? Hãy thành thật một giấy thôi!

Re: Nhìn lại Hiệp định Élysée (II)
2008-09-02 07:03:52
LaGiang


Chào Bác Đào Công Khai,

Bác ơi! Lần đầu tiên VN và QG vấp phài món "Ám sát, thủ tiêu" của HCM nhập nội từ Staline. Nên chửng hửng và bị tê liệt. Mất hết cán bộ.

Hồi ấy QĐD biết. Nhưng không có một chương trình ám sát toàn bộ tham mưu củ HCM. Cái giở của QDĐ là ở đó. Anh nào cũng ngán món ấy. Nên không giám làm. Thật dễ. Lúc HCM đang loa cái mõm ở Ba Đình. Cho nó ôm một trái lựu đạn. Cả HCM, Giáp Đồng, Truờng Chinh v.v đi tưng. Chắc ngày nay dân việt đâu có cảnh khổ nầy.

Giờ là ở đó Bác à!

Ðỗ Nam Hải: Một vài suy nghĩ sau khi đọc lại tập thơ Nhật Ký Trong Tù

Một vài suy nghĩ sau khi đọc lại tập thơ Nhật Ký Trong Tù
Phương Nam Đỗ Nam Hải

Nhân dịp kỷ niệm 118 năm, ngày sinh của Chủ Tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2008), nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, địa chỉ 24 – Quang Trung – Quận Hoàn Kiếm- Hà Nội, đã tái bản tập thơ Nhật Ký Trong Tù (còn được gọi là Ngục Trung Nhật Ký). Người chịu trách nhiệm xuất bản là Tiến sĩ Nguyễn Duy Hùng và người chịu trách nhiệm về nội dung là Tiến Sĩ Nguyễn Minh Nghĩa. Thơ được in xong và nộp lưu chiểu năm 2008.

Theo lời giới thiệu của nhà xuất bản trên,ở trang 7 thì “đây là một tập thơ chữ Hán gồm hơn 100 bài thơ, phần cuối có ghi chép về quân sự và thời sự, được Chủ Tịch Hồ Chí Minh sáng tác trong thời gian hơn 1 năm (29/8/1942-10/9/1943), người bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam trái phép tại các nhà tù ở tỉnh Quảng Tây Trung Quốc…Tập thơ được đánh giá là một văn kiện lịch sử quan trọng, một tác phẩm văn học xuất sắc, có tác dụng giáo dục sâu sắc; phẩm chất và đạo đức cách mạng cho nhiều thế hệ”

Như nhiều người Việt Nam ở trong nước, tôi cũng đã từng học, từng đọc và từng nghe nhiều về tập thơ ấy. Trong tháng 8 năm 2008 nầy, tôi cũng có dịp đọc lại nó. Tuy nhiên, mục đích của tôi khi viết bài nầy không phải là để đi phân tích về phong cách nghệ thuật của tác giả tập thơ. Bởi một lẽ đơn giản : tôi không phải là nhà thơ nên dẫu có muốn thì tôi cũng không có đủ khả năng để làm công việc ấy.

Mục đích chính của tôi khi viết bài nầy là muốn nêu lên một nhận xét lớn nhất, bao trùm nhất của mình đối với quí vị đọc giả, rằng : dường như tâm hồn của tác giả tập thơ Nhật Ký Trong Tù là tâm hồn của một người Trung Hoa chứ không phải là tâm hồn của một người Việt Nam! Mà Chủ tịch Hồ Chí Minh như chúng ta đã biết thì cả quê nội và quê ngoại của Ông đều thuộc Xã Kim Liên, Huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An, thuộc miền Trung Việt Nam. Điều đó có nghĩa Ông là một người Việt Nam 100%, thì theo tôi rất khó có cơ sở để nói rằng ông là tác giả của Nhật Ký Trong Tù được. (Trừ khi Ông là người Việt Nam nhưng lại hoàn toàn mang tâm hồn của người Trung Hoa khi làm thơ thì thôi, không nói làm gì)

Để chứng minh cho nhận xét trên của mình, tôi xin được đi vào phân tích nội dung của một số bài trong tập thơ ấy. Trước hết là bài “Tết Song Thập Bị Giải Đi Thiên Bảo”, trang 68 :

Nhà nhà hoa Tết với đèn giăng
Quốc Khánh reo vui cả nước mừng
Lại đúng hôm nay ta bị giải
Oái oăm gió cản cánh chim bằng


Theo tôi, với một người đang bị tù thì việc người đó hồi tưởng về quá khứ, kể cả việc hồi tưởng về ngày Quốc Khánh của tổ quốc mình thì đó là chuyện hết sức bình thường. Thế nhưng, 2 chữ “ Song Thập “ có trong tựa đề của bài thơ trên có nghĩa là gì? Theo chú thích ở trang 293 của chính tập thơ trên thì : “Song Thập tức là ngày mùng 10/10 là ngày Quốc Khánh của Trung Hoa Dân Quốc trước đây.”

Như vậy là đã rõ : Ngày Quốc Khánh ở đây là ngày Quốc Khánh của Trung Hoa chứ không phải là ngày Quốc Khánh của Việt Nam. Và cái việc nhà nhà kết hoa, giăng đèn ấy dĩ nhiên cũng là nhà nhà Trung Hoa chứ không phải là nhà nhà Việt Nam!

Để rõ hơn, chúng ta hãy cùng trở lại với lịch sử Trung Quốc đầu thế kỷ thứ 20 vừa qua : ngày 10/10/1911, tại Vũ Xương- Trung Quốc đã diễn ra cuộc khởi nghĩa của nhiều tổ chức cách mạng Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa dành thắng lợi tại Vũ Xương đã mở đường cho sự thắng lợi toàn diện của cuộc cách mạng dân chủ tư sản, kết thúc chế độ quân chủ lập hiến ở Trung Quốc. Hai ngày sau, nước Trung Hoa Dân Quốc được thành lập và cuộc cách mạng đó còn được gọi là cuộc Cách Mạng Tân Hợi.

Sự hồi tưởng về quá khứ của nhà thơ thì đã là như vậy, thế còn những chiêm nghiệm về hiện tại của ông thì sao? Trong bài "Kỷ Niệm Họ Hầu Tặng Một Cuốn Sách" trang 267, tác giả viết :

Sách ngài chủ nhiệm mới đưa sang
Đọc đoạn, tinh thần chợt mở mang
Còn vẳng bên tai lời lãnh tụ
Chân trời một tiếng sấm rền vang


Theo chú thích ở trang 298 thì “Hầu chủ nhiệm tức Hầu Chí Minh là chủ nhiệm chính trị chiến khu 4, người đã trực tiếp thả Hồ Chí Minh theo lệnh của Tưởng Giới Thạch.”

Còn theo lịch sử của đảng Cộng Sản Việt Nam thì : tháng 1/1941, Chủ Tịch Hồ Chí Minh về nước, sau gần 30 năm xa tổ quốc. Ông ở tại hang Pắc Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Tháng 5/1941, Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (gọi tắt là Việt Minh) ra đời, do ông làm lãnh tụ. Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là : bản thân ông Hồ Chí Minh đã là lãnh tụ rồi thì cái sự “Còn vẳng bên tai lời lãnh tụ” là lãnh tụ nào nữa? Tôi đã thử đưa ra những giả thiết có thể, nhưng bằng phương pháp loại trừ đã cho phép tôi kết luận : cả vị lãnh tụ lẫn nhà thơ trong bài thơ trên chỉ có thể là hai người Trung Hoa, chứ không thể là hai người Việt Nam được!

Mặt khác, đọc hết toàn bộ tập thơ, người đọc tuyệt nhiên không hề thấy tác giả đề cập gì đến những tên sông, tên núi, tên người Việt nam đã từng đi vào sử sách, thơ ca. Đâu rồi những Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa? Đâu rồi những Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám? Và đâu rồi những sự kiện lịch sử chỉ mới diễn ra ở Việt nam một vài năm, trước khi ông Hồ Chí Minh bị bắt như : Hai cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tháng 9 /1940), Nam Kỳ (11/1940) và cuộc binh biến Đô Lương (01/1941), với máu của bao người Việt Nam đã đổ xuống vì nền độc lập dân tộc? Ngay cả những đồng chí cộng sản của ông như : Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Thụ, Võ Văn Tần, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, v..v Tất cả đều không thấy xuất hiện trong Nhật Ký Trong Tù.

Đọc đến đây, có thể có người sẽ nêu ý kiến phản biện cho rằng : vì Chủ Tịch Hồ Chí Minh lúc đó đang bị tù ở Trung Quốc nên rất có thể ông đã tạm quên Việt Nam đi trong tâm thức của mình chăng? Nhưng theo tôi, ý kiến nầy là rất khó thuyết phục. Bởi vì, thực tế sau đây sẽ chứng minh cho điều ngược lại : trong cuốn sách “ Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch”, do Nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội phát hành vào năm 2001, tác giả Trần Dân Tiên người đã viết lại theo lời kể của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, vào tháng 9 năm 1945 tại Hà Nội, về giai đoạn nầy của ông ở trang 105 và 107 như sau :

“Đi liền 10 đêm và 5 ngày, Cụ Hồ đến một thị trấn Trung Quốc, chưa kịp nghỉ chân thì chiều hôm đó Cụ bị bắt. Và gian khổ lại bắt đầu. Quốc Dân Đảng giam Cụ vào nhà lao T.H.S hơn hai tuần, ngày mang gông, đêm đeo cùm…Trong khi Cụ Hồ lê lết tấm thân mệt lử từ nhà giam nầy đến nhà giam khác, có lẽ những việc lớn đang dồn dập trong nước và trên thế giới. Ai khuyên bảo đồng chí? Ai giúp đỡ và đẩy mạnh việc tổ chức? Có lẽ các nước đồng minh đã đổ bộ lên Đông Dương ? Có lẽ Pháp-Nhật đã cắn nhau? Có lẽ các đồng chí trong Đảng Cộng Sản Đông Dương và các hội viên Việt Minh đang đau đớn hỏi nhau Cụ Hồ bị tai nạn gì? Lòng Cụ Hồ rối như tơ vò vì phải ngồi im vô ích, trong khi công việc đang đòi hỏi Cụ mà thời gian đi qua không chờ người.”

Như vậy cũng là đã rõ : thế thật vô lý nếu như những mối lo gan ruột kia lại không hề được nhà thơ Hồ Chí Minh thể hiện gì, dù chỉ là một dòng trong Nhật Ký Trong Tù? Ngoài ra, tôi còn có thêm thắc mắc nữa là : tại sao lần nầy đi tù tại Quảng Tây- Trung Quốc, thời gian là hơn một năm (08/1942 đến 09/1943) thì Chủ Tịch Hồ Chí Minh lại nổi hứng làm thơ? Trong khi , lần đi tù trước ở Hồng Kong, thời gian là gần hai năm (từ 06/1931 đến 01/1933) lâu hơn thì lại không thấy ông làm thơ? Tôi tin rằng, nếu ai đọc kỹ tập thơ trên thì cũng đều có những thắc mắc tương tự như tôi hoặc nhiều hơn tôi.

Nói tóm lại, viết về Chủ Tịch Hồ Chí Minh, lại viết về một vấn đề có tính nhạy cảm như thế này, tôi hiểu rằng là cần phải hết sức thận trọng. Nhưng theo tôi, dù vấn đề có là nhạy cảm và cần phải thận trọng đến đâu đi chăng nữa thì không có nghĩa là không nên viết, không nên phản biện lại những gì liên quan đến ông. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp trên tinh thần xây dựng, kể cả những ý kiến phản biện của đọc giả xa gần. Mục đích là để có thể sớm đưa ra được kết luận chính xác về vấn đề nêu trên. Tôi xin chân thành cảm ơn trước.

Điều đáng buồn ở Việt Nam từ trước đến nay, nhất là ở lĩnh vực khoa học xã hội là tình trạng phản biện phổ biến theo kiểu “Một chiếc máy bay chia thành hai tốp máy bay”. Điều đó hoàn toàn là hình thức và phản khoa học. Nó vừa gây mất thời gian, tiền bạc của xã hội; vừa tạo ra sự xuê xoa, nể nang, thậm chí là lừa dối lẫn nhau, rất tai hại.

Đề cập đến vấn đề này, nguyên tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Sô (giai đoạn 1985-1991) M. Gorbachev đã có những nhận xét rất xác đáng trong cuốn sách “Cải Tổ Và Tư Duy Mới” – Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1988, trang 24 như sau : “Trong khoa học xã hội nẩy nở thói lý luận kinh viện. Những tư tưởng sáng tạo bị loại trừ ra khỏi ngành khoa học xã hội. Những sự đánh giá và phán đoán hời hợt, duy ý chí trở thành những chân lý không thể bác bỏ được mà chỉ cần thuyết minh. Những cuộc tranh luận khoa học, lý luận và những cuộc tranh luận khác bị cướp mất nội dung sinh động, mà không có những cuộc tranh luận nầy thì không thể phát triển tư tưởng, không thể có sinh hoạt sáng tạo được. Những khuynh hướng tiêu cực không chừa các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, chính trị và các lĩnh vực giáo dục, y tế. Và ở đây nổi lên chủ nghĩa trung bình, chủ nghĩa hình thức, lối nói trống rỗng,…”

Khoảng giữa năm 2001, khi còn đang sinh sống tại Australia, tôi có viết bài “Viết Về Chủ Tịch Hồ Chí Minh”, với bút hiệu là Phương Nam. Trong đó, tôi có đặt ra một số vấn đề nữa, liên quan đến Chủ Tịch Hồ Chí Minh như sau :

1/ Chủ Tịch Hồ Chí Minh có phải là danh nhân văn hóa thế giới đã được tổ chức UNESCO công nhận, nhân dịp kỷ niệm 100 ngày sinh của ông (19/5/1890-19/5/1990) như các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt nam đã nêu hay không?
2/ Ở thủ đô Paris của nước Pháp vào đầu thế kỷ thứ 20 vừa qua là chỉ có duy nhất một ông Nguyễn Ái quốc- Nguyễn Tất Thành hay là có đến 5 ông Nguyễn Ái Quốc khác nhau?
3/ Tác giả Trần Dân Tiên viết cuốn sách “Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch”, nói ở trên có phải là Chủ Tịch Hồ Chí Minh hay không?
vv …

Nay xin được trân trọng giới thiệu lại cùng quí vị đọc giả quan tâm, trong phần phụ lục ở dưới bài viết này. Xin trân trọng kính chào !

Phương Nam – Đỗ Nam Hải
Thành phố Sài Gòn – Việt Nam,
Tháng 8 năm 2008



Phụ lục: www.doi-thoai.com
Viết Về Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Phương Nam - Australia
“Bao nhiêu sao sáng bấy nhiêu anh hùng vì dân, mà bác Hồ ngôi sao sáng vô ngần, cuộc đời của bác chói ngời gương người cộng sản, quyết làm theo lời bác dạy khuyên. Quê hương yêu dấu Bắc - Nam chung một dòng máu, đoàn kết bên nhau đàn cháu ngoan của bác Hồ,..., nguyện xứng cháu của bác Hồ Chí Minh...”.

Có thể nói rằng ở Việt Nam không ai lại không biết đến CT HỒ Chí Minh. Các thế hệ thanh, thiếu niên, nhi đồng lại càng được giáo dục kỹ lưỡng về ông. Những bài hát như trên là xuất hiện ở mọi lúc mọi nơi, dù ông mất đã hơn 30 năm nay. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong sách giáo khoa các cấp cũng luôn nói tới ông từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ. Tất cả đều nhằm mục đích làm cho mọi người hiểu rằng: không bao giờ được quên công lao to lớn của ông đối với dân tộc và kêu gọi tất cả hãy " Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.".

Tài Liệu Giáo Dục Công Dân lớp 7, Nhà Xuất Bản Giáo Dục năm 1997, trang 53 có một bài đọc thêm nhan đề: Tinh Hoa Của Dân Tộc Việt Nam Góp Phần Vào Tinh Hoa Thế Giới, nội dung khẳng định một sự kiện là: Vào năm 1990, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Hồ Chủ Tịch, Tổ Chức Giáo Dục, Khoa Học Và Văn Hóa của Liên Hiệp Quốc, tức UNESCO (United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization), đã ra một nghị quyết công nhận ông là danh nhân văn hóa thế giới. Trong đó có đoạn:

“... Chủ tịch Hồ Chí Minh là một hiện tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng cho nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ.”. (trích nghị quyết UNESCO, sách đã dẫn.)

Trong bài Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Danh Nhân Văn Hóa Của Nhân Loại, bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Dy Niên, nguyên chủ tịch ủy ban UNESCO Việt Nam, viết vào tháng 5 năm 2000 vừa qua cũng tiếp tục khẳng định như vậy. (Xem: http://www.cpv.org.vn/hochiminh/cuocdoisunghiep/docs/nguyendynien_danhnhanvanhoa.htm )

Dù có ý đọc kỹ nhưng tôi không thấy cả hai bài viết trên ghi cụ thể đấy là nghị quyết số mấy? Ký ngày nào và ai đã ký nó? Như thông thường đối với việc trích dẫn một nghị quyết quan trọng như thế. Tuy nhiên ở nước ngoài, vì có điều kiện được tiếp cận với những nguồn tài liệu khác thì tôi lại thấy những bài viết quả quyết rằng: không hề có một nghị quyết nào như vậy cả. Ðiều đó có nghĩa là CT Hồ Chí Minh chưa bao giờ được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới, mà ông mới chỉ có tên trong danh sách được đề cử, rồi dừng lại ở đó thôi.

Nhận thấy đây là một vấn đề lớn cần làm rõ, vì dù ai có chấp nhận hay không thì trong thực tế ông cũng đã là nhân vật lịch sử của Việt Nam trong thế kỷ thứ 20 vừa qua. Còn cái lịch sử ấy đã và sẽ tiếp tục diễn ra như thế nào? Tốt hay xấu? v.v… thì đó không phải là mục đích chính mà tôi muốn đề cập đến trong bài viết này.

Ngoài ra còn là vấn đề bức xúc hơn, nó liên quan đến sự nghiệp trồng người của dân tộc: những học sinh lớp 7 kia rồi sẽ lớn lên, và với thời đại bùng nổ thông tin như ngày nay thì việc các em được tiếp cận với những nguồn tài liệu khác là rất dễ dàng. Khi ấy liệu các em còn biết tin vào đâu? Nguồn nào đúng, còn nguồn nào sai? Nếu chúng tự phát hiện ra sự thật lại ngược hẳn với những gì đã được dạy dỗ từ nhỏ đến lớn thì sao? Từ đó rất có thể chúng sẽ oán trách các thế hệ cha anh đã lừa dối chúng, rồi cứ theo cái vết mòn ấy, biết đâu chúng lại đi lừa dối tiếp những thế hệ sau thì hậu quả sẽ tai hại biết nhường nào? Cả một dân tộc cứ đi lừa dối lẫn nhau mãi như vậy thì dân tộc ấy sẽ đi về đâu? v.v…

Chính vì những lý do trên mà ở phần dưới đây, tôi xin được nêu ra một số câu hỏi liên quan đến thân thế và sự nghiệp của CT Hồ Chí Minh mà đến nay vẫn chưa được làm rõ. Tôi rất mong các nhà nghiên cứu ở cả trong và ngoài nước, vốn quan tâm đến lịch sử Việt Nam hiện đại, nhất là đến thế hệ trẻ Việt Nam tương lai hãy giải đáp giúp. Tôi nghĩ rằng đây không chỉ đơn thuần là mối quan tâm của riêng tôi - một độc giả, mà còn là của hàng chục triệu phụ huynh học sinh đang có con cháu mình đi học ở Việt Nam. Những câu hỏi của tôi là:

1- Có phải trước khi xuống tầu buôn Pháp làm phụ bếp vào ngày 5 tháng 6 năm 1911 thì chàng trai 21 tuổi Nguyễn Tất Thành, với tên mới là Văn Ba đã có sẵn ý định ra đi tìm đường cứu nước hay chưa? Nếu anh Ba đã có sẵn mục đích rõ ràng như sau này anh kể lại:

“…Tôi muốn được đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta...” thì thật đáng quý biết bao. Tuy nhiên nó lại mâu thuẫn với một sự kiện sau do những tài liệu ở nước ngoài viết rằng:

Ngày 15.9.1911, khi vừa đặt chân đến cảng Mác-Xây (Marseille) - Pháp, tức là chỉ hơn 3 tháng sau khi rời bến Nhà Rồng - Sài Gòn thì anh Thành đã vội viết đơn xin được vào học nội trú Trường Thuộc Ðịa (Ecole Coloniale) (http://ia311231.us.archive.org/0/items/HoChiMinh-donxinhoc/Marseille_le15_Septembre_1911.pdf ). Nhưng đã bị nhà trường từ chối với lý do:

Ðơn không được xét vì anh là đối tượng di chuyển tự túc đến Pháp chứ không phải được tuyển chọn từ xứ Ðông Dương sang, theo như quyết định ban hành ngày 30.4.1910 của Bộ Thuộc Ðịa Pháp.

(lá đơn này do ông Nguyễn Thế Anh sưu tầm được trong văn khố Pháp ngày 2.2.1983, có sao chụp lại cẩn thận. Cũng cần lưu ý rằng: theo những tài liệu trong nước thì Trường Thuộc Ðịa là nơi chuyên đào tạo những tên Việt gian phản động, tay sai của thực dân Pháp lúc bấy giờ)

Giả sử câu chuyện trên là có thật thì sẽ có thêm một câu hỏi hệ quả là: Nếu năm 1911 Trường Thuộc Ðịa chọn anh Thành, thì 9 năm sau anh có còn chọn con đường của Lênin cho cách mạng Việt Nam nữa hay thôi? (theo suy luận chủ quan của tôi thì có lẽ là anh Thành sẽ … thôi!).

2- Phải chăng lý do chính rời nước ra đi của anh Thành là bởi trước đó một năm, trong gia đình anh có một biến động lớn đã diễn ra? Ðó là:

Năm 1910, cha anh là ông Nguyễn Sinh Huy, tức cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (1863 - 1929), tri huyện Bình Khê - Bình Ðịnh, trong một cơn say rượu đã sai người đánh chết anh nông dân tên là Tạ Ðức Quang bằng roi và gậy. Sở mật thám Pháp sau khi điều tra xong đã kết ông vào tội ngộ sát khi đang say rượu. Hội Ðồng Nhiếp Chánh tại Huế sau đó đã ra quyết định kỷ luật ông: hạ bốn bậc trong ngạch quan lại thời bấy giờ, bị triệu hồi về Huế, rồi cuối cùng là bị sa thải luôn. (bà Thanh con gái ông cũng kể : ông là người nghiện rượu nặng, hồi nhỏ bà vẫn thường bị bố đánh rất đau bằng roi, có khi còn quẳng cả roi đi để đánh bằng tay.).

Một số tài liệu lịch sử trong nước thì viết rằng:

"Cụ Sắc nhà nghèo, ham học, thông minh, thi đậu phó bảng, “bị ép” ra làm quan. Có lần cụ nói: " Quan trường là chốn nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn.". Cụ thường làm những việc trái ý bọn quan lại, nên bị cách chức."

Như vậy là giữa hai nguồn tài liệu đã có những điểm mâu thuẫn lớn cần làm rõ, nhất là lý do ra khỏi chốn quan trường của ông: phải chăng ông ra khỏi đấy vì như ông nói là không muốn bị "nô lệ hơn" trong số những người nô lệ? Hay là bởi rượu đã đưa ông ra? Và vì bị ra khỏi chốn ấy nên ông lại càng uống nó nhiều hơn?

Cũng qua những sách báo ở trong nước kể lại thì: khi từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ (tháng 10.1954), ông đi thăm rất nhiều vùng quê trên miền Bắc, đi ra nước ngoài, v.v…

Nhưng riêng quê ông thì mãi tới tháng 6.1957, tức là gần 3 năm sau ông mới về thăm lần đầu. Có cái gì đó không ổn trong tinh thần vì nước quên… quê của ông không? Hay ông ngại nhân dân, cán bộ và chiến sỹ biết được tấn bi kịch trên của gia đình mình?

3- Ai là người đã viết cuốn Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ Chủ Tịch vào mùa xuân năm 1948? Cuốn sách ghi tác giả tên là Trần Dân Tiên. Năm 1985, giáo sư Hà Minh Ðức đã xuất bản cuốn Những Tác Phẩm Văn Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, trong đó có đoạn:

“... Ðáp lại tình cảm mong muốn của đồng bào và bạn bè trên thế giới. Hồ Chủ Tịch với bút danh Trần Dân Tiên đã viết tác phẩm Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ Chủ Tịch,...”. (Hà Minh Ðức, sách đã dẫn, Tr 132, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1985).

Như vậy có nghĩa là tác giả Trần Dân Tiên và Hồ Chủ Tịch thực ra chỉ là một người. Giáo sư Nguyễn Khánh Toàn, người biết rất rõ ông từ những năm 1930s, khi cả hai cùng học tập và làm việc ở Liên Xô đã viết lời tựa cho cuốn sách cũng đã khẳng định như vậy. Tôi tin là hai giáo sư ấy viết đúng, vì 2 lẽ: thứ nhất, đó là việc rất quan trọng mà nếu nói sai thì chính hai giáo sư có thể sẽ bị mang họa, chắc chắn là hai ông đã cân nhắc rất kỹ trước đó. Thứ hai, cứ theo tư duy lôgic mà suy luận: nếu ông Trần Dân Tiên và cụ Hồ là hai người thì nay ông Trần Dân Tiên kia đâu? Còn sống hay đã chết? Nếu sống thì bao nhiêu tuổi rồi? Vợ, con ra sao? Nếu chết thì chết vào năm nào? Hiện chôn ở đâu? v.v…

Còn một khi lại chỉ là một người thì xét theo khía cạnh nào cũng đều không ổn. Chúng ta hãy nghe một vài đoạn Chủ Tịch Hồ Chí Minh viết về … Hồ Chủ Tịch như sau :

“... Bác Hồ của chúng ta vô cùng khiêm tốn; Bác không muốn kể cho ai nghe về hoạt động của mình; rồi Bác Hồ được nhân dân ta coi là cha già của dân tộc; Bác còn vĩ đại hơn Lê Lợi, Trần Hưng Ðạo vì đã đưa dân tộc ta vào kỷ nguyên xã hội chủ nghĩa.”! và:

“... Một người như Hồ Chủ Tịch của chúng ta với đức tinh khiêm tốn nhường ấy và đang lúc bề bộn biết bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể cho tôi nghe bình sinh của Người được?...”! (Trần Dân Tiên, sách đã dẫn). Cũng cần lưu ý rằng vào năm 1948 thì vị "cha già của dân tộc" ấy mới có 58 tuổi! (1890 – 1948).

Trong thực tế nhân loại cũng đã có những người dùng quyền lực hay tiền bạc để bắt người khác ca ngợi mình. Nhưng nếu Hồ Chủ Tịch lại tự mình đứng ra "dầy công vun đắp" nên điều đó thì quả là chuyện xưa nay hiếm! Tôi cũng không rõ là những người đang cố gắng "giữ gìn và bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh" có coi đây như là một trong những “yếu tố cấu thành” nên tư tưởng của ông hay không? Và giả sử ở dưới cõi âm kia, nếu ông gặp các vị cách mạng đàn anh khác như Lê Nin, Stalin, Mao Trạch Ðông, v.v… thì không nói. Nhưng nếu rủi thay, ông lại gặp các cụ Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi thì biết "ăn, nói" thế nào cho phải với những vị anh hùng chân chính của dân tộc ấy đây?

Một điều nữa đáng lo ngại hơn: trong cuốn Dàn Bài Tập Làm Văn lớp 7, (NXB Giáo Dục 1997, Tr 39), tức là đã 12 năm, sau khi tác phẩm của giáo sư Hà Minh Ðức nói trên được xuất bản, thì các tác giả biên soạn cuốn sách giáo khoa kia vẫn tiếp tục mập mờ mà không chịu viết thẳng ra đấy là hai hay chỉ có một người. Nếu cứ cung cấp thông tin và bắt các thầy cô giáo dạy học sinh theo kiểu này, thì đến ngay như người lớn cũng còn bị nhiễu loạn chứ nói gì đến trẻ con?

Hồi đất nước còn chiến tranh, tôi đã được một sỹ quan QÐND Việt Nam cho xem cuốn nhật ký của anh, trong đó có đoạn:

“Hà Nội ngày 2 tháng 9 năm 1969.
Hôm nay Ðài Tiếng Nói Việt Nam báo tin Bác Hồ bị bệnh nặng. Bác ơi! Chúng cháu hiểu là chúng cháu thật có lỗi với Bác, vì đất nước đến lúc này vẫn còn bị nỗi đau chia cắt. Ðơn vị của chúng cháu đã được vinh dự nhận lệnh vào miền Nam chiến đấu, chỉ vài hôm nữa thôi là lên đường. Cháu xin hứa với Bác rằng: dù phải trải qua gian khổ, hy sinh đến đâu thì chúng cháu cũng quyết tâm hoàn thành mọi nhiệm vụ mà đảng và quân đội giao phó; góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc, để sớm được đón Bác vào thăm đồng chí, đồng bào trong ấy.”.


Cũng cùng một tinh thần đó, từ miền Nam, nhà thơ Lê Anh Xuân viết ra:

Gửi miền Bắc lòng miền Nam chung thủy
Ðang xông lên chống Mỹ tuyến đầu.


Nghĩa là tất cả đều hướng lên Ba Ðình tràn đầy một niềm tin trong sáng, một niềm kính trọng vô biên. Bởi vì ở nơi ấy "có Trung Ương Ðảng, có bác Hồ" luôn chỉ lối dẫn đường cho cách mạng Việt Nam tiến lên.

Theo tôi, nếu trong một cuộc chiến tranh, giả sử tất cả những yếu tố khác đều ngang nhau, thì bên nào có thêm yếu tố tin tưởng và kính yêu lãnh tụ như trên là sẽ rất có lợi thế để giành chiến thắng. Thế nhưng, nếu vì muốn trở thành một “ngôi sao sáng vô ngần”, mà chính vị lãnh tụ lại cho ra đời một sản phẩm kiểu như Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ Chủ Tịch thì lại là điều không thể chấp nhận được. Bởi vì đó thực chất là quan điểm đạt mục đích bằng mọi cách, kể cả những cách rất thiếu tử tế: chủ động đi hủy hoại những giá trị văn hóa của nhân loại nói chung và dân tộc nói riêng, mà hậu quả để lại sẽ rất nặng nề cho hậu thế. Bằng cách đó ở một giai đoạn nhất định, có thể ông cũng tự đưa được uy tín của mình lên vị trí rất cao trong lòng một bộ phận dân tộc. Xong nếu xét về lâu về dài, khi phần lớn đã nhận ra sự thật thì hình ảnh:

"… Trùng trùng đoàn quân tiến bước theo con đường của Bác, nở ngàn hoa chiến công ta dâng lên Người,..." sẽ trở nên trớ trêu, phũ phàng và thật đáng xấu hổ với bạn bè thế giới.

Tôi cũng được biết một câu chuyện sau: gia đình ấy có 2 anh em, người anh đi bộ đội, còn người em gái ở lại nhà và lấy chồng. Năm 1954 khi người anh từ chiến khu trở về thì em gái mình đã cùng chồng di cư vào Nam. Sau gần 30 năm xa cách, hai anh em mới được gặp lại nhau, khi người em ra Bắc bốc mộ cho chồng - ông bị chết trong thời gian học tập cải tạo ở ngoài ấy. Cô em nói trong nước mắt giận hờn:

“Tại anh và những người cộng sản như anh nên bây giờ em gái anh khổ, các cháu của anh phải mồ côi cha.”.

Xúc động không kém, người anh nói:

“Thôi em ạ, đằng nào thì mọi việc cũng đã lỡ rồi. Em cứ nghĩ như thế này: nếu một người em không hề tin yêu, kính trọng mà làm em đau khổ thì đấy chỉ là một nỗi khổ đau. Nhưng nếu đấy lại là người em hằng kính trọng, tin yêu bao năm trời, kể cả sẵn sàng đem cuộc đời của mình ra để hy sinh, cống hiến mà nay em lại phát hiện ra rằng thực chất sự tin yêu, kính trọng ấy của mình lại bắt nguồn từ sự giả dối của người kia, thì lúc ấy nỗi đau khổ trong em sẽ phải nhân lên gấp 5, gấp 10. Ðấy chính là tâm trạng của anh lúc này, em ạ.”.

Trên đất nước Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua đã có bao nhiêu gia đình phải lâm vào hoàn cảnh tương tự như vậy?

4- Một vài điểm khác cần xác minh:

Trong số những người Việt Nam hoạt động ở Paris vào những năm 1910s -1920s là chỉ có duy nhất 1 ông Nguyễn Ái Quốc hay là có đến 5 ông Nguyễn Ái Quốc? Vai trò của chàng trai Nguyễn Ái Quốc - Nguyễn Tất Thành trong các hoạt động như: thành lập Hội Người Việt Nam Yêu Nước, soạn thảo Bản Yêu Sách 8 Ðiểm Gửi Hội Nghị Véc - Xây năm 1919, ra báo Người Cùng Khổ năm 1922, viết Bản Án Chế Ðộ Thực Dân Pháp năm 1925, v.v…là tới đâu? Liệu có đúng như các phương tiện thông tin đại chúng trong nước hoặc chính CT Hồ Chí Minh đã kể lại hay không? Bởi vì nếu theo các tài liệu “ngoài luồng” thì :

a) Hội Người Việt Nam Yêu Nước đã được thành lập tại Pháp từ năm 1914, mà tiền thân của nó là Hội Ðồng Bào Thân Ái còn có trước đó nữa. Ðấy là do công lao của những ông Nguyễn Ái Quốc khác, chứ anh Thành lúc ấy lại không có mặt ở Pháp mà là đang mưu sinh ở Anh. (anh Thành ở Anh từ cuối năm 1913 đến 1917. Cuối năm 1917 mới rời Anh để sang Pháp, và ở đấy đến năm 1923 thì sang Liên Xô.).

b) Bản Yêu Sách 8 Ðiểm gửi hội nghị Véc-Xây là có rất nhiều điểm trùng với những bản yêu sách đã có trước đó của cụ Phan Chu Trinh (1872-1926) gửi khâm sứ Trung kỳ, gửi toàn quyền Ðông Dương và gửi chính phủ Pháp. Như vậy có phải như CT Hồ Chí Minh đã kể:

“... Ý kiến đưa yêu cầu do ông Nguyễn đề ra, nhưng lại do luật sư Phan Văn Trường viết, vì lúc bấy giờ ông Nguyễn chưa viết được tiếng Pháp…”. (Trần Dân Tiên, sách đã dẫn).

Hay những ý kiến ấy phải là của cụ Phan Chu Trinh mới đúng? Vì cụ Phan đã có mặt và hoạt động ở Paris liên tục trước đó, cụ cũng là sáng lập viên của Hội Ðồng Bào Thân Ái. (cụ Phan thi đậu phó bảng năm 1901, cùng khóa với cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh anh Thành.)

c) Báo Người Cùng Khổ (Le Paria) là do những “ông Tây” (người Pháp) lập ra, chứ đâu phải của một “ông ta” nào như sự xác nhận sau:

“... Ban biên tập báo Người Cùng Khổ do Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút, giao cho Nguyễn Thế Truyền là một Việt kiều được anh Nguyễn giới thiệu vào Hội Hiệp Thuộc.” (Trần Dân Tiên, sách đã dẫn).

Bây giờ giả sử đúng là có 1 ông Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút tờ báo kia đi, nhưng chính xác là ông Nguyễn Ái Quốc nào? Vì ở Paris lúc ấy có tới 5 ông Nguyễn Ái Quốc, còn gọi là nhóm Ngũ Long gồm các ông: Phan Chu Trinh, sang Pháp năm 1911/phó bảng. Phan Văn Trường/1908/luật sư. Nguyễn Thế Truyền/1910/cử nhân. Nguyễn An Ninh/1917/năm thứ 2 trường luật. Nguyễn Tất Thành/1917/tiểu học, và ai ở trong nhóm viết bài cũng ký tên là Nguyễn Ái Quốc. Hơn nữa, chúng ta cũng cần tìm hiểu thêm cả việc ai đã giới thiệu ai? Vì anh Thành mới chân ướt chân ráo đến Pháp thì nào đã quen biết ai mà giới thiệu cho ông Nguyễn Thế Truyền vào Hội Hiệp Thuộc? (ông Truyền sang Pháp từ năm 1910, có 2 bằng cử nhân văn chương và cử nhân hóa học, có vợ người Pháp.)

d) Cũng theo Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ Chủ Tịch thì : “...Ông Nguyễn chỉ viết một quyển sách duy nhất là quyển Bản Án Chế Ðộ Thực Dân Pháp.”. Thế nhưng với điều kiện thông tin lúc đó thì theo tôi chính quyển này mới là quyển ông ít có cơ hội tham gia nhất. Bởi vì cả tài liệu trong và ngoài nước đều xác nhận rằng: cuốn sách được xuất bản lần đầu tại Pháp vào năm 1925, nhưng lúc ấy thì ông Nguyễn không có mặt ở Pháp mà đang hoạt động ở Trung Quốc! (ông ở Trung Quốc từ tháng 11.1924. Tháng 5.1927 mới rời khỏi đấy để sang lại Liên Xô.).

Hơn nữa, cứ giả sử các tài liệu đều viết sai về năm xuất bản cuốn sách trên thì chúng ta cũng cần lưu ý là: chính anh Thành cũng đã phải công nhận rằng anh là người có bút lực yếu ở trong nhóm, nếu như không muốn nói là yếu nhất. Vì anh Thành chỉ mới tốt nghiệp trường tiểu học Pháp - Việt Ðông Ba, Huế niên khoá 1906-1907. Tháng 9.1907 anh vào học trường Quốc Học Huế, nhưng chưa đầy 1 năm sau, tháng 5.1908 thì đã bị đuổi khỏi đấy rồi. Tức là tấm bằng Thành Chung đối với anh cũng vẫn còn rất xa vời. (xem http://www.cpv.org.vn/hochiminh/tieusu/thoinienthieu/index.htm

Nói tóm lại, những điểm còn chưa rõ ràng trong thân thế và sự nghiệp của CT Hồ Chí Minh là còn rất nhiều. Một lần nữa tôi rất mong các nhà nghiên cứu, các sử gia ở cả trong và ngoài nước hãy vì tính trung thực, khách quan của lịch sử và nhất là vì thế hệ trẻ Việt Nam tương lai, hãy xác minh cho được chúng càng sớm càng tốt. Viết về CT Hồ Chí Minh, lại lật ngược những vấn đề khá phức tạp và tế nhị lên như thế này, tôi hiểu rằng sẽ làm cho nhiều người vốn tôn kính ông đau lòng. Nhưng theo tôi, thà làm như vậy một lần cho rõ còn hơn là cứ dễ dãi với nhau để rồi tự làm khổ nhau và làm khổ mãi con cháu chúng ta sau này.

5- Một ý kiến đề nghị:

Như ở đầu bài đã nêu, từ 11 năm qua đã có rất nhiều bài viết với hai xu hướng ngược nhau: thứ nhất, khẳng định rằng CT Hồ Chí Minh đã được UNESCO chính thức công nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Thứ hai là phủ nhận nó. Nay tôi xin có một ý kiến đề nghị: dù ai thuộc xu hướng nào cũng được, nhưng nếu đã có tấm lòng quan tâm, mong rằng hãy cùng nỗ lực giải quyết dứt điểm vấn đề này. Ðối tượng tiếp cận chính là UNESCO, đây là vị trọng tài khách quan, vô tư và hữu hiệu hơn cả. Sẽ có hai khả năng xảy ra:

a) Nếu CT Hồ Chí Minh đã thực sự được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới thì những cơ quan nào đã đưa tin sai lạc trước đó cần ra một bản tin đính chính lại. Ðó cũng là hành động thể hiện sự tôn trọng các độc giả, thính giả của mình.

b) Nếu UNESCO chưa hề có một quyết định như giả thiết nêu trên, thì cá nhân hay tổ chức nào có điều kiện tiếp cận được với tổ chức ấy, cần làm sao có được một văn bản phủ nhận chính thức của họ. Dù chỉ là vài dòng thôi, nhưng nó sẽ có tác dụng thuyết phục rất lớn.

Ðây cũng là trách nhiệm của mỗi người nhằm giúp UNESCO. Nó cũng là quyền lợi của UNESCO cần phải tự bảo vệ mình, khi có ai hoặc quốc gia nào lợi dụng uy tín của họ để làm những việc khuất tất. Tôi cũng rất mong rằng nếu trường hợp là b) thì những nhà biên soạn sách giáo khoa ở Việt Nam cần rà soát lại toàn bộ những điểm liên quan và điều chỉnh lại chúng cho đúng sự thật.

6- Một ý kiến ủng hộ:

Trong bức thư ngỏ viết vào tháng 5.2001 vừa qua của 2 tác giả Trần Khuê và Nguyễn Thị Thanh Xuân, gửi tân tổng bí thư ÐCS Việt Nam Nông Ðức Mạnh có một ý kiến đề nghị là: hãy hỏa táng thi hài của Hồ Chủ Tịch. Bức thư giải thích rằng: những người lãnh đạo đảng và nhà nước vào thời điểm CT Hồ Chí Minh qua đời đã vi phạm ý nguyện ghi trong di chúc của người quá cố. Trong đó ông đã viết:

"… Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là hỏa táng. Tôi mong rằng cách hỏa táng sau này sẽ được phổ biến, và như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng. Khi ta có nhiều điện thì điện táng càng tốt hơn.".).

Và nay thì những người lãnh đạo mới của ÐCS VN cần phải sửa lại sai lầm ấy. Nếu cần thì tổ chức một cuộc Trưng Cầu Dân Ý về vấn đề này. (xem: http://www.thongluan.org/VN2/viet_frame.htm , 4.6.2001 )

Hai tác giả cũng phân tích thêm rằng: hình thức ướp xác, tức chôn nổi là hoàn toàn không phù hợp với phong tục tập quán của người Việt Nam, vốn quen với hai hình thức phổ biến là địa táng hoặc hỏa táng. Rồi cảnh báo là nếu không nghiêm chỉnh tuân theo di chúc của người đã khuất, thì gia đình, dòng họ và đất nước luôn bị “sái”, không ngóc đầu lên được. Ngoài ra còn là chuyện lãng phí tiền bạc: để duy trì hệ thống lăng CT Hồ Chí Minh thì hàng năm phải tốn kém 100 tỷ đồng VN. Dù đấy là tiền thuế đóng góp của nhân dân hôm nay hay là đi vay mượn của nước ngoài, thì sau này con cháu chúng ta cũng phải nai lưng ra trả nợ.

Tôi hoàn toàn ủng hộ ý kiến trên và tin rằng nguyện vọng của đa số nhân dân Việt Nam hôm nay cũng là như vậy. Chúng ta chỉ cần thử làm một bài toán nhỏ:

Ðể xoá đói giảm nghèo cho một hộ gia đình nông dân, theo 2 tác giả là cần 5 triệu đồng VN tiền vốn. Giả thiết mỗi hộ có 4 người, như vậy tổng chi phí cho công trình ấy trong suốt 26 năm qua là 2600 tỷ đồng VN (không tính chi phí xây lăng) là một số tiền rất lớn, đủ để giúp hơn 2 triệu người Việt Nam thoát khỏi cảnh đói nghèo. Còn nếu mỗi hộ cần 10 triệu đồng tiền vốn thì cũng giúp được cho hơn 1 triệu người. Nhưng cái chính của vấn đề là sự lãng phí kia rất vô lý, không đáng có.

Ngoài ra tôi cũng xin được bổ xung 1 ý kiến nữa, hy vọng rằng nó sẽ góp thêm cơ sở để dân tộc cùng dứt khoát hơn với đề nghị trên của 2 tác giả. Ý kiến của tôi liên quan đến khía cạnh kiến trúc của lăng:

Kể từ khi lăng được khánh thành nhân dịp quốc khánh mùng 2.9.1975 đến nay, thì từ những người dân bình thường tới các kiến trúc sư, nhà xây dựng, v.v. từ Bắc chí Nam mà tôi có dịp được tiếp xúc, phần lớn đều cho rằng: công trình này không có những đường nét của kiến trúc hiện đại, cũng lại rất nghèo tính dân tộc. Tức là nếu xét thêm về khía cạnh kiến trúc thì cũng không có giá trị gì đáng kể để mà phải tiếc nuối nữa. Có lẽ vì chạnh lòng với công trình quốc gia khá nặng nề và đơn điệu này, ai đó đã sửa lại lời những câu đầu của bài hát Viếng Lăng Bác (nhạc: Hoàng Hiệp, thơ: Viễn Phương), mà thành: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác, con thấy lăng Ông đẹp hơn lăng Bác, trăm phần trăm,…”(!)

(lăng Ông: lăng ông Lê Văn Duyệt - một võ tướng đầu triều Nguyễn, lập tại khu Bà Chiểu - Sài Gòn; trăm phần trăm = 100%.).

7- Những lời thay cho kết luận:

Trong diễn văn đáp từ của nguyên tổng bí thư ÐCS Việt Nam Lê Khả Phiêu đọc tại Hà Nội ngày 18.11.2000 vừa qua, nhân dịp tổng thống Mỹ lúc ấy là Bill Clinton sang thăm Việt Nam có đoạn: “...Ðiều chắc chắn là trong thế kỷ 21, khoa học công nghệ sẽ phát triển như vũ bão. Nhưng lại có một nghịch lý là hố ngăn cách giữa nước giầu và nước nghèo lại ngày càng lớn. Ngày nay, tổng số tài sản của hơn 300 tỷ phú trên thế giới bằng thu nhập của hơn 2 tỷ người ở các nước nghèo.”.

Ðúng! Ðấy là thực tế, và người đọc hiểu ngay rằng ý ông muốn nhấn mạnh đến sự bất công của một thế giới ngày càng bị phân hóa giầu - nghèo hôm nay. Nhưng còn một thực tế nữa là: liệu những người lãnh đạo trong ÐCS Việt Nam trước và sau ông có dám làm triệt để việc kê khai danh sách của 300 người giầu nhất ở Việt Nam hôm nay hay không? Họ là những ai? Có bao nhiêu tiền? Ðể ở những đâu? Bằng cách nào họ đã làm giầu được nhanh như vậy? Tổng số tiền mà họ đã tích lũy được là bằng thu nhập của bao nhiêu triệu người nghèo ở Việt Nam? v.v…

Một cuộc Trưng Cầu Dân Ý như 2 tác giả Trần Khuê và Nguyễn Thị Thanh Xuân đề nghị, nếu nó được tiến hành sẽ là cuộc tổng diễn tập cho một bước dân chủ cao hơn. Ðó là: dân tộc Việt Nam phải được quyền tự mình lựa chọn giữa thể chế chính trị dân chủ đa nguyên, đa đảng và pháp trị của thời đại mới, hay là cứ phải tiếp tục duy trì mãi thể chế nhất nguyên, đơn đảng của “thời đại Hồ Chí Minh” đầy đau thương hôm qua, lắm bất công hôm nay và vô vàn những rủi ro, bất trắc vào ngày mai.

Tôi nghĩ rằng nếu toàn thể dân tộc ta ở cả trong và ngoài nước, một khi đã nhận thức lại được đúng những vấn đề của quá khứ và hiện tại thì sẽ vượt qua được những khoảng cách biệt còn lại. Ðể trong tương lai có thể đoàn kết thành một khối thống nhất tạo ra được một sức mạnh tổng hợp, nhằm đấu tranh có hiệu quả hơn với các thế lực bảo thủ hiện nắm thực quyền trong ÐCS Việt Nam.

Trong thực tế có những người giận ngày “quốc hận” 30 tháng 4, giận mùa xuân năm 1975, rồi giận lây sang cả mùa thu năm 1945 với cuộc Cách Mạng Tháng 8 lịch sử, vì cho rằng đây là chiến công riêng do CT HỒ Chí Minh và ÐCS Ðông Dương lúc đó lãnh đạo. Theo tôi đây là điều chứa đựng nhiều sai lầm, bởi vì thành công của cuộc CMT8 là chiến công chung của mọi người Việt Nam, trong đó có cả vai trò của các đảng phái khác. Tất cả lúc ấy đều đã sẵn sàng gác bỏ mọi quyền lợi riêng, để cùng đồng lòng đứng lên giành lại nền độc lập tự do cho Tổ Quốc.

Nó cũng là kết quả được hun đúc bởi truyền thống dựng nước và giữ nước từ ngàn đời xưa, từ lịch sử gần 100 năm kháng Pháp của ông cha ta, và mọi người Việt Nam đều có quyền tự hào chính đáng về nó. Với một nước Việt Nam mới, chắc chắn trang sử hào hùng ấy của dân tộc ta cũng sẽ được các sử gia viết lại cho khách quan và chính xác hơn. Một ngày hội lớn về dân chủ của non sông nhất định sẽ được mở ra trong một tương lai gần. Khi mà khối đoàn kết toàn dân gồm 80 triệu người, với hơn 76 triệu đồng bào ta ở trong nước và 3 triệu đồng bào ta ở nước ngoài đã được xác lập vững chắc. Ðó là niềm tin mãnh liệt của tôi.

Phương Nam - Australia.
Tháng 7 năm 2001.
http://tiengnoitudodanchu.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=6332

Phạm Hồng Sơn: Cuộc cách mạng vẫn tiếp tục

Cuộc cách mạng vẫn tiếp tục
Phạm Hồng Sơn


Có lẽ khó có niềm vui nào sánh được sự hân hoan, vui sướng của người dân một nước sau gần 100 năm bị ngoại bang đô hộ, khinh rẻ, hắt hủi, khi được nghe những lời nói âm vang từ chính người cùng dòng máu, cùng tiếng nước mình:

“Hỡi đồng bào cả nước,
“Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”….Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”
(Trích: Tuyên ngôn Độc lập do Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 02/09/1945).



Sự bức xúc, ấm ức của cả một dân tộc bị coi rẻ trong bao năm, cho dù nguyên nhân không hẳn chỉ do ngoại bang, dường như được vỡ oà vào câu “Có” đồng thanh từ biển người vào cái ngày đó, khi vị Chủ tịch lâm thời khéo léo buông câu hỏi “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”.

Lòng tự tôn dân tộc, sau bao năm bị đè nén đã gặp đúng dịp thăng hoa làm ngây ngất lòng người. Mọi của cải, vàng bạc, châu báu và cả sinh mạng từng được tích cóp chi li hay suy tính hơn thiệt đều trở thành tầm thường. Lòng ái quốc đã vượt lên tất cả. Mọi người dân đều sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc không gợn chút toan tính cá nhân.

Trường lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam luôn cho thấy mỗi lần giành lại được độc lập từ tay ngoại bang luôn là một chiến công đầy cam go của cả dân tộc. Nhưng không biết do vô tình hay có chủ ý, những người con của nước Việt thời hiện đại khi khởi thảo bản Tuyên ngôn Độc lập nói trên đã không nhắc đến tầm quan trọng của việc thực thi những quyền cơ bản của con người và sự bình đẳng cần phải có giữa các công dân trong một quốc gia – điều kiện làm cho độc lập dân tộc trở nên có ý nghĩa. Trong 1014 từ của bản Tuyên ngôn Độc lập đó phần lớn chỉ được dùng để lên án, kết tội lực lượng ngoại bang (Pháp và Nhật) và nhấn mạnh sự bình đẳng cần phải có giữa các dân tộc.

Đúng là sau đó, những khát khao độc lập, sự hy sinh vô cùng của dân chúng đã được đáp đền bằng một chính quyền hoàn toàn không có một ông “mắt xanh, mũi lõ” nào. Tất cả đều là người Việt Nam cả. Thậm chí tiếng Tây cũng phải lén lút khi sử dụng. Nhưng sự bất bình đẳng nội tại ngay giữa những người Việt da vàng, mũi tẹt đã ngày càng lộ rõ khi lực lượng ngoại bang dần rút khỏi đất nước.

Nhìn lại một cách toàn cảnh, giai đoạn thiết lập và củng cố của chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà khi đó, ta có thể thấy những mâu thuẫn ngày càng tăng theo thời gian đối với tinh thần “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng”. Chính quyền đưa ra chương trình “Diệt giặc đói”, nhưng theo sau đó là chương trình hắt hủi, triệt hạ những người có của ăn, của để. Chương trình “Diệt giặc dốt” đã mang lại kết quả to lớn về xoá mù chữ trong một thời gian ngắn, nhưng sau đó người dân chỉ có thể an toàn khi đọc hoặc viết theo những gì người cầm quyền không phật ý, kể cả việc ghi chép của các nhà sử học cũng không được là ngoại lệ. Ngay đến những sáng tác nghệ thuật không dùng đến chữ viết cũng phải trông chừng thái độ của người cầm quyền, nếu không muốn tai ương ập tới. Các thiết chế quyền lực công được dựng lên luôn kèm theo tên Nhân Dân như Uỷ Ban Nhân Dân, Hội Đồng Nhân Dân, Toà Án Nhân Dân, Viện Kiểm Sát Nhân Dân, Công An Nhân Dân, v.v nhưng tuyệt đối đều do các đảng viên của Đảng Cộng Sản nắm giữ. Cơ quan có sứ mạng bảo vệ công lý cho xã hội (bộ Tư Pháp) còn bị xoá đi trong hơn 20 năm, cho dù mọi quyền lực lúc đó đã hoàn toàn nằm trong tay Đảng Cộng Sản. Trong hệ thống chính quyền hoàn toàn của người Việt Nam lãnh đạo đó đã từng có những vị trí do những người dân không thuộc Đảng Cộng Sản đảm nhiệm, nhưng thường có ảnh hưởng không đáng kể hoặc chỉ có tác dụng làm cho sự bất bình đẳng giảm bớt đi sự phản cảm. Trước 1945 người dân lao động chỉ căm phẫn dựa vào thái độ ngạo mạn của kẻ ngoại quốc khi chúng xì xồ “Sa-lôt, san anh-đi-gien” (1) thì sau năm 1954, người dân lao động luôn phải bấm bụng nghe những câu tiếng Việt tươi rói nơi cửa miệng những cán bộ Nhà nước hay trên báo chí: “Bọn tư thương”, “ Quân phe phẩy, “Lũ con buôn”, “ Bọn Nhân Văn-Giai Phẩm”, “ Lũ phản động chống đảng”,…

Đến hôm nay, hẳn nhiều người đã hiểu ra rằng sự mất tự do, sự miệt thị do chính người đồng bào của mình gây ra có thể còn tệ hơn kẻ ngoại bang và rõ ràng là chua xót hơn.

Nếu bắt chước những người khởi thảo ra bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam lấy bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền, Dân quyền của Pháp năm 1791 làm sự đối chiếu, ta có thể thấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776, những người khởi thảo đã đề cập ngay đến tầm quan trọng và một số điều kiện cơ bản để đảm bảo cho mọi người dân của nước Hoa Kỳ độc lập trong tương lai (khi thoát khỏi sự áp chế, đô hộ của nước Anh) có quyền bình đẳng với nhau trong mọi vấn đề, kể cả quyền lãnh đạo đất nước. “…Trong những quyền ấy, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Để đảm bảo cho các quyền này, con người thiết lập ra các chính phủ và chính sức mạnh của các chính phủ này xuất phát từ sự ưng thuận của nhân dân. Và khi một hình thức Chính phủ nào đó trở nên đối nghịch với các mục đích trên thì Nhân dân có quyền thay đổi, hay phế bỏ chính phủ đó, và thiết lập một Chính phủ mới, dựa trên nền tảng những nguyên tắc như vậy và tổ chức các quyền lực của mình theo hình thức nào để cho các quyền lực đó có khả năng đảm bảo An ninh và Hạnh phúc cho họ nhiều nhất”, “…Nhà Vua đã không chịu tuân theo Pháp luật, một công cụ lành mạnh nhất, cần thiết nhất cho lợi ích công cộng”, “…Nhà Vua đã cản trở công việc Tư pháp bằng cách không chấp thuận Luật thiết lập Quyền Tư pháp” (…”among these are Life, Liberty, and the pursuit of happiness – That to secure these rights, Goverments are instituted among Men, deriving their just powers from the consent of the governed. That whenever any Form of Government becomes destructive of these ends, it is the Right of the People to alter or to abolish it, and to institute new Government, laying its foundation on such principles and organizing its powers in such form, as to them shall seem most likely to effect their Safety and Happiness”, “…He has refused his Assent to laws, the most wholesome and necessary for the public good”, “…He has obstructed the Administration of Justice, by refusing his Assent to Laws for establishing Judiciary Powers”) (2)

Tất cả 17 điều của bản Tuyên ngôn Nhân quyền, Dân quyền của Pháp năm 1791 đều là những điều nói đến những quyền cơ bản của từng cá nhân con người, nhấn mạnh rất nhiều lần và bằng nhiều cách về quyền bình đẳng tất yếu giữa những công dân khác nhau. “Mọi công dân đều bình đẳng trước luật pháp, nên đều có thể được giữ mọi chức vụ, mọi địa vị, mọi công vụ theo năng lực, và không có bất cứ sự phân biệt nào khác ngoài đạo đức và tài năng của mỗi người” (Tous les citoyens étant égaux à ses yeux, sont également admissibles à toutes dignités , places et emplois publics, selon leur capacité, et sans autres distinctions que celles de leurs vertus et leurs talents) (2).

63 năm đã trôi qua kể từ ngày câu nói bất hủ “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng” vang lên trên Quảng trường Ba Đình của nước Việt, nhưng sự bình đẳng giữa chính những người Việt với nhau vẫn là vấn đề đang phải phấn đấu. Biết bao câu hỏi trong xã hội Việt Nam đang còn bỏ ngỏ. Bao giờ công ty tư nhân cũng được đối xử trọng vọng như các tổng công ty nhà nước? Bao giờ đi tìm công lý không phải kèm theo “phong bì”? Bao giờ lời ta thán của người dân có tranh cãi đất đai với chính quyền cũng được đăng công khai trên mặt báo? Bao giờ một bí thư đảng uỷ cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật như một nhân viên thường? Bao giờ một người Việt Nam không phải là đảng viên Đảng cộng sản sẽ nắm chức vụ Thủ tướng hay chức vụ Bộ trưởng bộ Công an? Bao giờ trong Quốc hội sẽ có thành viên của không chỉ một đảng? Bao giờ thì Đảng cộng sản lịch thiệp với các đảng phái khác? Bao giờ? Bao giờ?...

Có lẽ đó chính là lý do sâu xa của nhiều người Việt Nam hôm nay đang dấn thân giống như những vị tiền nhân làm nên mùa thu Cách mạng năm xưa. Dấn thân là bởi nhiều người Việt Nam đang cầm quyền vẫn còn coi quyền bình đẳng giữa những người Việt với nhau như một nguy hiểm, một thách đố. Nhưng trong cuộc dấn thân hôm nay để tạo dựng một xã hội bình đẳng, tôn trọng quyền con người cho mọi người Việt Nam không chỉ có những người không phải cộng sản. Bởi không phải tất cả những người cộng sản hôm nay đều tán thành sự độc chiếm quyền lực của đảng của họ, cũng như không phải tất cả ai là cộng sản cũng đều muốn trở thành kẻ ăn trên ngồi trốc. Như vậy, với ý nghĩa hoàn thiện, cuộc cách mạng cách đây 63 năm vẫn đang được tiếp tục.

Phạm Hồng Sơn
Tháng 08/2009

(1) Nguyên văn tiếng Pháp “Salaud, sale indigène” có nghĩa “Mẹ kiếp, đồ bản xứ dơ bẩn!”
(2) Theo: Quyền con người, các văn kiện quan trọng. Viện thông tin khoa học xã hội, Hà nội 1998.
http://tiengnoitudodanchu.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=6333

Monday, September 1, 2008

Nhìn lại Hiệp đinh Élysée

Nhìn lại Hiệp đinh Élysée (I)
Nguyễn Văn Lục
http://suthat-toiac.blogspot.com/2008/09/nhn-li-hip-nh-lyse-ii.html II
http://suthat-toiac.blogspot.com/2008/09/nhn-li-hip-inh-lyse.html I
http://suthat-toiac.blogspot.com/2008/09/nhn-li-hip-nh-lyse-kt.html III ket

Để kỷ niệm 59 năm, ngày ký Hiệp định Élysée, người viết xin ghi lại những diễn tiến chịnh trị chung quanh Hiệp Định này. Và tự hỏi rằng, đứng trên lập trường dân tộc, phải chăng việc cộng sản Việt Nam từ chối giải pháp Bảo Đại là đúng hay sai đối với lịch sử, với đất nước? Dân tộc, đất nước phải là quyền lợi tối thượng trên bất cứ đảng phái nào? Nhưng việc ông Ngô Đình Diệm phản đối mãnh liệt về nội dung văn kiện hiệp định Elysée phải được hiểu như thế nào? Để trả lời câu hỏi đó, cần tìm hiểu rõ hoàn cảnh chính trị lúc bấy giờ.

Lá bài Bảo Đại

Lá bài bị cháy

Sau khi Bảo Đại tuyên bố từ nhiệm để trở thành công dân Vĩnh Thụy, cả một triều đại đã xụp đổ theo ông. Sau đó, ông đành nhận một chức hờ cố vấn tối cao “Supreme adviser”vào ngày 30 tháng 8. Xin trích đoạn viết của Arthur J. Dommen trong Indochinese Experience of the French and the Americans về chuyến ra Bắc của cố vấn tối cao như sau:


“He left Hue on September 4 by car. All along the roads, he met crowds of people who had come to have a look at the former emperor, whom most had never seen.


In Quang Tri, Dong Ha, Dong Hoi, Vinh and Thanh Hoa, the crowds were particularly dense, but respectful. This first meeting of the 2 was one of the most extraordinary in history... “We are all going to work together for the independence of the country.” (trang 119)


Tạm dịch: Ông rời Huế ngày 4 tháng 9 bằng xe hơi. Suốt dọc đường, đám đông đến gặp ông để được nhìn mặt cựu hoàng mà suốt đời họ mà phần đông chưa được thấy mặt bao giờ. Ở Quảng Trị, Đông Hà, Đồng Hới, Vinh và Thanh Hóa. Đám đông kéo đến rất là đông trong niềm kính trọng… Cuộc gặp gỡ lần đầu tiên giữa hai nhân vật thật là một cuộc gặp gỡ kỳ diệu nhất trong lịch sử... “Chúng ta sẽ cùng sát cánh bên nhau cho nền độc lập của xứ sở.”


Vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương
Nguồn: .photobucket.com
---------------------------------------------------------------------------
Đó cũng là câu nói lừa bịp kỳ diệu nhất lịch sử của Hồ chí Minh nói với Bảo Đại.

Sau này, trong bài phỏng vấn của ký giả A. Steele của báo New Herald Tribune, Hồ chí Minh kết án Bảo Đại như sau: “Chúng tôi không cần gì đến bọn bù nhin. Chỉ có bù nhìn và phản quốc mới ủng hộ Bảo Đại.” (Trích Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, 1995, 581)

Đám đông còn quý mến cựu hoàng, nhưng tôi tự hỏi Bảo Đại đã làm gì cho họ? Và phải chăng, sự đón tiếp này sẽ trở thành một tiền án liên quan đến số phận của cưu hoàng sau này. Lúc bấy giờ, ông Mai Văn Hàm là người lo chu cấp chỗ ăn ở, tiền chi tiêu cho Bảo Đại Ông và một vị hoàng thân có trách nhiệm gì trong việc môi giới những người dẹp như Lý Lệ Hà và Mộng Điệp. (1) Trong dịp Phạm Khắc Hòe về Huế, như ta đã biết là người đã bán đứng Bảo Đại, hoàng hậu đã hỏi thẳng Phạm Khắc Hòe về Lý Lệ Hà. Hòe xác nhận là chuyện đó có thực còn nói thêm đó là một cô gái đẹp. Hoàng Hậu bị xúc phạm nặng nề, nhưng im lặng không nói gì, còn gửi tiền ra cho Bảo Đại chi dùng.

Và chính thức kể từ 1950 về sau, dòng họ Nguyễn và Bảo Đại không còn có trong mắt của Hoàng hậu nữa.

Đối với gia đình, Bảo Đại đã bị cháy.

Sau này, ông Bảo Đại đã bị Hồ Chí Minh loại trừ bằng cách đẩy khéo ra khỏi Việt Nam. Ông rời Hà nội vào ngày 16/03/1946 trên chiếc máy bay DC-3 sang Tàu, Hồ Chí Minh đã không muốn sự có mặt của Bảo Đại ở Hà Nội nữa. Vai trò trái độn, “bù nhìn” đã không cần thiết nữa. Lucien Boudard viết “Au printemps de 1946, la tête de Bảo Đại ne valait toujours pas très chère.” Vào mùa xuân 1946, cái đầu của Bảo Đại vẫn luôn chẳng có giá trị là bao nhiêu. (Trích La guerre d’Indochine, Lucien Boudard, nxb Bernard Grasset, Paris, trang 146). May là Bảo Đại đóng kịch cũng khéo không để lộ ra chút nghi ngờ gì, nếu lộ ra chút gì thì Việt Minh sẵn sàng thủ tiêu ông.

Sau này vua Bảo Đại viết: “Pour moi, la chose est claire. Hồ Chí Minh ne veut pas de moi. Đối với tôi, sự việc thật rõ ràng, Hồ Chí Minh không cần đến tôi nữa.

Ông Bảo Đại đã kể lại chi tiết bị Hồ Chí Minh lừa bịp ra sao:

“Le 15 avril, nous faisons de nouveauc escale à Kunming. Plus heureux qu’à aller, nous trouvons un avion en partance immédiate pour Hà Nội. Au moment ou nous allons embarquer, un message personnelle m’est remis. C’est un billet de Ho Chi Minh.”

Ngày 15 tháng 4, một lần nữa, chúng tôi lại đến Côn Minh. May mắn hơn lúc ra đi, có một phi cơ sắp sửa bay đi Hà Nội. Đến lúc chúng tôi sắp sửa lên máy bay thì tôi nhận được một thư riêng của ông Hồ Chí Minh như sau


“Thưa Ngài, xin Ngài cứ thong thả, mọi chuyện ở đây đều tốt đẹp. Sự có mặt của Ngài ở nước Tàu xem ra có ích lợi hơn. Ngài đừng nghĩ ngợi gì, khi nào cần ngài về lại thì tôi sẽ thông báo cho Ngài sau. Ngài cứ nghỉ ngơi đến khi nào những trách nhiệm đang chờ đợi chúng ta. Ôm hôn trong tình huynh đệ. Ký tên. Hồ Chí Minh
(Trích Le Dragon d’Annam, S.M Bao Dai, nxb Plon, trang 156).

Sau khi biết mình bị lừa, Bảo Đại có thể nói là trắng tay. Nay thì Việt Minh gọi ông là công dân Vĩnh Thụy.

Trắng tay về nhiều mặt.

Có nhiều lúc, ông không còn đồng xu dính túi. Ông mô tả lại cái cảnh một mình bị bỏ rơi tại phi trường như sau:


“L’avion n’est plus qu’un point à l’horizon. Sur l’ancienne base Américain, je me retrouve tout seul. Je m’assieds sur les marches del’aérogare pour faire le point. Non seulement me voilà seul, livré à moi-même, mais dans le plus complet dénuement. Pas un sou. Je n’ai même pas de vêtements de rechange. Pas davantage de papiers ou de passport. Je relis le billet de Ho Chi Minh “baisers fraternelles”
(Trích Le Dragon d’Annam, S.M Bao Dai, trang 156).

Máy bay chỉ còn là một điểm nhỏ ở chân trời. Chỉ còn có mình tôi ở phi trường vốn là một căn cứ quân sự cũ của Mỹ. Tôi ngồi xuống bực thềm nhà ga phi cảng để kiểm điểm lại. Chẳng những cảm thấy chỉ có một mình mà còn cảm thấy mình rơi vào tình trạng hoàn toàn cùng quẫn. Không một xu dính túi. Không có quần áo để thay đổi. Cũng chẳng có giấy tờ gì hay giấy thông hành. Tôi đọc lại lá thư của Hồ chí Minh “những cái hôn tình huynh đệ.”

Tôi chợt mỉm cười.

Còn đối với người Pháp, họ cũng chưa quên được Bảo Đại đã hai lần bỏ rơi họ. Lần đầu Bảo Đại theo Nhật và lần thứ hai nhận làm cố vấn tối cao cho Việt Minh.

Đối với người dân trong nước, nhiều người còn luyến tiếc, nhưng phần đông nhìn ông như một kẻ vô tích sự. Khi từ bỏ ngai vàng, không phải chỉ cái ngai vàng của ông bị mất. Nhưng là cả thần dân, cả một triều đại đã qua, cả ngàn năm lịch sử mất theo ông. Riêng triều Nguyễn tổ tiên ông, lập nên sự nghiệp kể từ năm 1600. Phút chốc, ông xóa sạch.

Có thể, ông đã không nghĩ cạn hết về gánh nặng lịch sử mà ông đã quyết định, đã làm.

Phần Bảo Đại sau đó đã không quên phê phán khá nặng con người của Hồ Chí Minh Ông viết về Hồ Chí Minh mà tôi xin được tóm lại như sau trong sách của ông:


Ông ta là một tên đóng kịch khéo léo, giả nhân nghĩa, tử tế với cái bề ngoài có vẻ khổ hạnh. Nhưng tất cả những ai tiếp xúc với ông ta lần đầu đều bị ông ta lừa như những người Mỹ, ông Sainteny, đại diện Pháp và cả tôi nữa. Ông ta có thể làm bất cứ điều gì, miễn là đạt được mục đích của ông ta. Rất khéo léo, thông minh đến quỷ quyệt và vô liêm sỉ đến bất nhân (cyniquement inhumain).


Cần nói rõ thêm, trong số những người bị lừa như Sainteny. Sainteny, khi về Pháp nhận được lá thư của Hồ Chí Minh, đề ngày 24 tháng giêng 1947 có câu: “C’est pourquoi, je tiens à vous répéter que, malgré ce qui est arrivé, vous et moi nous restons amis. Et je peux vous affirmer que nos deux peuples aussi restent amis. (Trích lại trong Ho Chi Minh, Jean Lacouture, trang 148). Vì thế, tôi cần nhắc lại với ông rằng, mặc dầu những gì đã xảy ra, Tôi với ông vẫn là bạn.Và tôi có thể khẳng định với ông rằng hai dân tộc chúng ta vẫn là bạn.

Ngô Đình Diệm, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Trọng Kim chẳng bao giờ có thể viết được những dòng thư chân tình như thế đối với kẻ thù.

Ngoài ra, còn có nhiều tác giả người Pháp như Paul Mus, Claude de Groulat cũng bị lừa. Đặc biệt nhất là Jean Lacouture. Tôi đã chán ngấy đọc ông này qua các cuốn sách rất thiếu trung thực, như một thứ tiểu thuyết trong các cuốn như: Ho Chi Minh, 1967. Ở trang 145, ông viết như thế này:


“Plusieurs fois, Je tentai de l’interroger sur sa vie privé, mais il n’en voulait rien dire, et ma passait aussitôt des documents à étudier. Chaque fois, j’avais bien de la peine à le quitter quand, me retournant, je le surprenais qui me suivit des yeux avant de se retirer dans sa cabane pour reprendreses travaux.”


Nhiều lần, tôi thử hỏi ông ta về đời tư của ông, nhưng ông không bao giờ hé miệng nói. Và đưa ngay cho tôi những tài liệu để nghiên cứu. Mỗi lần, phải từ biệt ông, tôi cảm thấy bất nhẫn khi tôi ngoái cổ lại nhìn ông làm ông ngạc nhiên, ông vẫn còn đứng đó nhìn theo tôi trước khi rút lui vào lều để tiếp tục làm việc.

Rồi tiếp theo cuốn: Viet Nam, voyage à travers une histoire hay Une vie de rencontres, trong đó dành 3 trang, từ trang 54-55-56 để nói về l’Oncle Hồ, sans malice.


Lá bài có giá (bonnes cartes)

Thế mà lịch sử trớ trêu thay, lá bài Bảo Đại lại có giá. Bởi vì, chính lúc bị thất thế, nằm chèo queo ở Hồng Kông, ở tư thế một cựu hoàng, Bảo đại đã có cơ hội tiếp xúc, trao đổi nghe ngóng, chờ đợi với đủ mọi chính khách Việt–Pháp-Mỹ, đại diện đảng phái trong mưu cầu tìm một giải pháp cho Việt Nam. Chẳng hạn có những nhân vật sau đây tiếp xúc với ông như Nguyễn Tường Tam, Trần Trọng Kim, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Văn Sâm, Trần Quang Vinh, Trần Văn Lý, Cao Văn Chiếu.

Đặc biệt có Phan Văn Giáo là cầu nối và tai mắt của Bảo Đại ở trong nước: Bảo Đại viết: “J’observe toutes ces manifestations et J’attends”. (Tôi quan sát tất cả những diễn biến đó và tôi chờ đợi). Bên cạnh đó là Buckley, đại diện cho OSS của Mỹ đã liên lạc rất nhiều lần với Bảo Đại.



Điện Élysée
Nguồn: web-libre.org
---------------------------------------------------------------------------

Vì thế, năm 1947, Bảo Đại được coi như một lá bài cần thiết trong tình thế lúc bấy giờ (bonnes cartes) Ông Pignon đã dùng Faugère và Cousseau, những tay lão luyện về chính trị có thể chơi bất cứ lá bài nào. Faugère biết hết mọi ngõ ngách, quen không thiếu người nào. Chỉ cần nói tên một người Việt Nam nào đó là ông có thể rành mạch, nói gốc gác đầy đủ về họ. Faugère chuẩn bị bãi đáp cho Bảo Đại về nước bằng cách thông báo cho mọi người Việt Nam biết tin đó Coussseau thông thạo tiếng Việt thì làm cố vấn cho Bảo Đại về những trách nhiệm phải làm. Chính Cousseau là người đưa ra những chọn lựa chính trị và tiến hành những thương lượng trong vòng bí mật. Ông có thể làm được tất cả mọi điều mà xem ra những người khác không làm được. Chính Bảo Đại cũng nhìn nhận Cousseau là người bạn Pháp rất thân thiết và tâm huyết của ông.

Kể từ khi lá bài Bảo Đại có giá, tiền bạc của Pháp đổ về Hồng Kông cho Bảo Đại không biết bao nhiêu mà kể. Bạc triêu tiền Phật lăng, hết triệu này đến triệu khác.

Xin trích dẫn Lucien Bodard viết về vấn đề này:


“Bao Đai reprenait une valeur marchande terrible. Une cour se formait autour de la Majesté, toutes sortes de Vietnamiens accouraient en fidèles serviteurs … Bao Dai retournait à la “grande vie”. Bao Dai ne multipliait pas seulement les exigences financières. Il posait aussi des conditions politiques.. de nouvelles propositions et aussi de l’argent, beaucoup d’argent. C’était sans fin.”
(La guerre d’Indochine, Lucien Bodard, trang 151)

Nay thì cái giá của Bảo Đại lên thật khủng khiếp. Chung quanh ông là một đám đủ thứ người Việt Nam quây lấy ông như những kẻ bầy tôi trung thành. Bảo Đại trở lại cuộc sống huy hoàng. Bảo Đại chẳng những đòi hỏi thêm việc cung cấp tiền bạc mà còn đòi hỏi về những điều kiện chính trị và tiền bạc, rất nhiều tiền bạc. Đó là những đòi hỏi không cùng.

Nhưng trong hồi ký Bảo Đại, ông đã đưa ra một số tiền mà người Pháp cung cấp cho ông, một số tiền nhỏ đến không nghĩa lý gì. 5000 đô la Hồng Kông. Cũng trong Hồi ký, Bảo Đại cho biết ông được người Pháp cho ở trong một biệt thự thật đẹp ở vùng Repulse Bay, ở đảo Victoria. Thêm vào đó, luôn luôn có hai cảnh sát người Tầu canh gác biệt thự.

Cái giá của ông là trở lại nếp sống đế vương. Bảo Đại đã biết lợi dụng tình thế cho đại sự và cũng không quên cho riêng mình.

Và để đổi lại những thứ đó. Người Pháp cho biết: “C’est à prendre où à laisser… C’était l’heure de la vérité. Vous devez montrer maintenant si vous êtes avec la France ou contre elle.” Người Pháp cho biết, Bảo Đại hoặc phải chấp nhận hoặc bỏ cuộc. Bây giờ là giờ phút của sự thật. Và ông phải chứng tỏ rằng ông đứng về phía nước Pháp hay chống lại nước Pháp. (Trích La guerre d’Indochine, Lucien Boudard, trang 150-151).


Sự chống đối của ông Ngô Đình Diệm

Bên cạnh đó, có ông Ngô Đình Diệm không ngừng theo dõi diễn tiến các cuộc thương lượng giữa Pháp và Bảo Đại. Ông đã 3 lần sang gặp Bảo Đại. Ông là người nổi tiếng chống cộng sản một cách không khoan nhượng và chống Pháp cũng vậy, ông biết tất cả những gì người Pháp đang ve vãn bên cạnh Bảo Đại.

Người Pháp đã nhận định về ông Ngô Đình Diệm như sau:
“Diem s’affirmait comme profondément hostile à la France et ne concevait les contacts avec la France que dans le but d’en obtenir l’inđépendance et l’unité du pays. Un rapport francais de février 1947 qualifiait ainsi sa position: “Il y a peu attendre qu‘il cherche à élaborer une construction solide et acceptable à la fois de notre part. Diem ne parait pas démentir sa réputation, il faut bien le dire, d’antifrancais”


(Trích tài liệu AOM INDO GGCP Suppl. 18: Situation politique - février 1947, trích lại trong Les catholiques Vietnamiens pendant la guerre d’indépednance 1945-1954, luận án tiến sĩ của Trần Thị Liên ở Institut d’Études Politiques de Paris, 1996, trang 193.)

Ông Diệm là người tỏ ra chống và thù địch với nước Pháp và chỉ coi những tiếp xúc với Pháp với mục đích dành được độc lập và thống nhất xứ sở. Một phúc trình của Pháp vào tháng giêng 1947 nói về lập trường của ông Diệm như sau: không có hy vọng chờ đợi gì ông ta tìm cách thiết lập một công trình gì vững chắc và chấp nhận được cùng một lúc với chúng ta. Xem ra ông Diệm không muốn mất cái danh tiếng là người chống Pháp.

Vì thế, ông sang Hồng Kông gặp Bảo Đại, cảnh cáo Bảo Đại: Ngài đừng bao giờ chấp nhận những điều kiện do người Pháp đưa ra. Ngài sẽ hơn bao giờ hết tự chuốc lấy cái nhục cho chính mình. Ngài chỉ trở về nước khi mà Ngài nắm chắc trong tay một nền độc lập thực sự. Ngài đừng bao giờ trở thành thứ tay sai của một thứ độc lập giả hiệu.

Trong hồi ký của Bảo Đại cũng viết về vấn đề can gián của ông Ngô Đình Diệm như sau:
“Je convoque donc à Hồng Kông le chef du gouvernement provisoire du Sud –Vietnam, Nguyễn Văn Xuân et Trần Văn Lý, le président du comité administratif de Hué. Je đemande à Ngô Đình Diệm à se joindre à eux. Ils arrivent le 19 décembre et nous aurons des entretiens pendant trois jours. Tous trois trouvent les termes de la déclaration satisfaisante, mais réagissent très défavorablement à la lecture du protocole. Diem est le plus virulent. Pour lui, les concessions faites par la France sont nettement insuffisantes, Quant aux restrictions de souveraineté imposées par l’adhésion à l’union francaise, elles lui paraissent aberrantes. Ly partage son point de vu. Tous deux influencés par le processus de décolonisation qui se déroule dans le même temps aux Indes et en Birmanie, m’exposent un projet qui donnerait au Viet Nam le statut dominion . A leurs yeux, c’est la seule solution acceptable por les nationaliste Vietnamiens”
(Le Dragon d’Annam, S.M Bao Dai, trang 190)

Tôi triệu tập sang Hồng Kông thủ tướng lâm thời miền Nam Việt Nam Nguyễn Văn Xuân và ông Trần Văn Lý, chủ tịch Ủy ban hành chánh Huế. Tôi cũng yêu cầu ông Ngô Đình Diệm cùng đi chung với phái đoàn. Họ đến ngày 19 tháng 12 và chúng tôi đã có những cuộc thảo luận trong ba ngày liền. Cả ba đều thấy những lời trong bản tuyên bố là được. Nhưng họ phản ứng không thuận lợi về văn kiện chính thức. Diệm là người tỏ ra hung hãn nhất. Đối với ông ta, những sự nhượng bộ của người pháp rõ ràng là không đủ, còn về những hạn chế về chủ quyền bị áp đặt khi gia nhập khối Liên Hiệp Pháp thì đối với Diệm là sai lầm. Ông Lý đồng ý với ý kiến của Diệm. Cả hai đều chịu ảnh hưởng về tiến trình giải thực đang diễn ra cùng thời điểm ở bên Ấn Độ và Miến Điện và đã đề nghị cho tôi một kế hoạch sẽ cho phép Việt Nam trở thành một quy chế nước tự trị trong Liên Hiệp Anh. Dưới mắt họ, Đó là giải pháp duy nhất có thể chấp nhận được đối với những người Việt quốc gia.”

Stephen Pan trong Viet Nam crisis cũng nhận xét về lập trường của ông Diệm như sau:
“When Diem arrived, however, he found that Bao Đai had alteady signed an agreenment with the French High Commissionner Emile Bollaert making Viet Nam, a member of the French Union. Diem objected to the agreenment. Diem was opposed to Ho Chi Minh and the Viet Mịnh but he did not want cooperate with the French until actual dominion status was granted. By the end of 1948, it was clear to him that the French domination was no different from what it had been before. Meanwhile, the Viet Minh cleverly denounced the Bao Dai regime, and kept plugging the slogan, “Viet Nam for Vietnamese.”
(Trích Viet Nam crisis, Stephen Pan và Daniel Lyons, trang 69)

Khi ông Diệm tới nơi (Hồng Kông) đã thấy Bảo Đại sẵn sàng ký với toàn quyền Bollaert một thỏa ước biến Việt Nam thành một thành viên của Liên Hiệp Pháp. Ông Diệm chống đối Hồ Chí Minh và Việt Minh, nhưng ông cũng không muốn hợp tác với người Pháp cho đến khi nào người Pháp chấp nhận giải pháp tự trị. Vào cuối năm 1948, ông Diệm nhận thấy rõ là việc cai trị của người Pháp bây giờ không khác gì với trước đây. Trong khi đó, Việt Minh khéo léo tố cáo chế độ Bảo Đại và họ tiếp tục tuyên truyền khẩu hiệu: Nước Việt Nam của người Việt Nam.

Sau này, khi hiệp định Élysée đã được ký kết, một lần nữa, Ngô Đình Diệm công khai lên tiếng phản đối.

Cuối cùng, về phần Cousseau, ông đã thuyết phục được Bảo Đại loại trừ Ngô Đình Diệm.

Từ nay không còn ai là kỳ đà cản đường đi của Cousseau nữa.

(Còn tiếp)
© DCVOnline
---------------------------------------------------------------------------

(1) Theo tác giả Lý Nhân Phan Thứ Lang, trong cuốn “Giai thoại và sự thật về Bảo Đại, vua cuối cùng Triều Nguyễn”, Nhà xuất bản văn nghệ, 2006, thì những người vợ và tình nhân của Bảo Đại gồm:
1. Nam Phương Hoàng hậu, quê Gò Công, Tiền Giang, có 5 người con
2. Bùi Mộng Điệp, quê Bắc Ninh, không hôn thú, có 3 người con
3. Lý Lệ Hà, quê Thái Bình, vũ nữ, không hôn thú, không có con
4. Hoàng Tiểu Lan (Jenny Woong), vũ nữ Trung Hoa lai Pháp, không hôn thú, có 1 con gái
5. Lê Thị Phi Ánh ở Huế, không hôn thú, có 2 người con
6. Vicky (Pháp), không hôn thú, có 1 con gái
7. Clément(?), vũ nữ và buôn lậu ở xóm Cigalle (Pháp), không hôn thú
8. Monique Marie Eugene Baudot (Pháp), có hôn thú, không có con
(Trích Bảo Đại, Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
http://fr.wikipedia.org/wiki/Bao_Dai
http://en.wikipedia.org/wiki/Bảo_Đại
--------------------------
http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=5423



Re: Nhìn lại Hiệp đinh Élysée (I)

2008-08-31 22:27:0
Tâm Việt

Chương 39, Con Rồng An Nam
http://www.saigonforsaigon.org/staticpages/index.php?page=20060401133706641
Cựu hoàng cho biết nhóm thủ hạ của Hồ Chí Minh rất kém cỏi nên mỗi khi nhìn thấy hành động của nhóm này, cựu hoàng đều nhớ tới những cộng sự viên từng ở bên cạnh cựu hoàng thời gian trước đó: “...Tôi lại thấy trở lại cùng vấn đề đã từng thảo luận với Ngô Đình Diệm, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim. Thật là những người cao khiết, đầy tinh thần trách nhiệm, rất tài ba, sung mãn, nhiều ý kiến, nhưng chỉ khổ nỗi không có phương tiện để thực hiện quyền hành.” (9)
Sự hình thành Giải Pháp Bảo Đại
http://tiengnoitudo.wordpress.com/2008/03/15/sự-hinh-thanh-của-giải-phap-bảo-dại/
Ngoài ra, những điều khoản khác, nhất là về ngoại giao và quân sự, vẫn còn những giới hạn quan trọng cho một nước thực sự độc lập. Bảo Đại viết trong hồi ký:
Từ đây trở đi, tôi đã thu hồi được đất Nam Kỳ, tôi coi như nhiệm vụ của tôi về điều đình đã chấm dứt.

[...]

Sau nữa, thoả hiệp này trước mắt tôi, chỉ là một giai đoạn để tiến tới độc lập hoàn toàn. Sự thành đạt về độc lập như thế đã xảy ra cho các nước lân cận ở Đông Nam Á như Phi Luật Tân, Miến Điện, Ấn Độ… làm tôi càng tin tưởng trong hy vọng.Tôi tin tưởng rằng thoả ước mùng 8 tháng 3 phải là một yếu tố nhất định đưa đến vãn hồi hoà bình. Hỏi Việt Minh còn có thể đòi hỏi gì nữa khi tôi đã thành công, mà họ thì bị thảm bại ở các hội nghị Fontainebleau và Đà Lạt, vào năm 1946?

Re: Nhìn lại Hiệp đinh Élysée (I)

2008-09-01 04:34:28

Trúc Lê

Giải pháp Bảo Đại [ http://www.hungviet.org/ ]
http://www.hungviet.org/hoanghaithuy/hoanghaithuy100308.html

60 năm nhìn lại: Bảo Đại, Trần Trọng Kim và Chính phủ của hai ông [ http://www.talawas.org/ ]
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=11249&rb=0302

Re: Nhìn lại Hiệp đinh Élysée (I)
2008-09-01 00:15:33
Bui Anh

HCM( 27/2/1946,7 giờ sáng) : ."..bon Phap' không muốn điều đình với tôi. Tôi kh6ng dượ Ðồng minh tín nhiệm.Ai cũng thấy tôi "đỏ" qua'. Vậy xin ngài làm cuộc hy sinh lầ thứ hai la` Ngài nhận laị quyền hành như trưóc.....Ngài thay chỗ cho tôi va` tôi trở thành cố vấn cho ngài.." (231)
10. Bảo Ðai hỏi Ng. Xuân Ha` va` Trần trg Kim được cã hai đồng y' viêc nhân này (8 giờ 30) va` lập danh sách Chính phủ. 10 giờ ,HCM gọi lại thu'c giục,Ðến trưa, BÐ nhận lời va` đồng y'.Sau khi liên lạc Thiếu tá Buckley , OSS của Mỹ va` ông nay` hứa Mỹ sẽ trung lập vi` cho là thuộc nôị bộ VN.
11. 13 giờ ,HCM mời tôi đến va` nói : Thưa Ngài, xin ngài hãy quên những điều tôi nói ban sáng. Tôi không co' quyền từ bỏ trách nhiệm... Tôi xin ngài tha lỗi cho một phút yếu lòng...(p.232)( CON RỒNG AN NAM ,BẢO ĐAI)

Trích dẫn trên đây
- vừa nói lên một trong hàng trăm đòn lừa gạt tiếp nối mà ông Hồ đã trỗ ngón liên tục với thế hệ thanh niên nhiều trí thức VN và hàng triệu đống bào vô tội với danh xưng "DÀNH ĐỘC LẬP...,

-vừa minh chứng với lời thú nhận "TÔI ĐỎ QUÁ" của ông Hồ rằng tại sao Pháp đánh cuộc nổi dậy của ông Hồ mà Hoa Kỳ lại trả tiền tổn phí .( The U.S. , in fact , had been paying the bills for the French colonial army during its war against Ho's Communists." (p.48) (PRESIDENT KENNEDY RICHARD REEVES (Washington Post Assistant Editor) .

-vừa chứng tõ với quí vị cựu kháng chiến chống Pháp rằng mặc dù lòng ngữong mộ của nhân dân và con cháu sau này vẫn sẵn sàng dành ngữong mộ quí vị về ý hứong và hành động hăng hái" xếp bút nghiên lên đuờng tranh đấu"vì lòng khát khao Độc lập , chứ nó không có nghĩa là cộng cuộc chống Pháp do ông HCM và đãng Công Sản VN là có chính nghĩa. Bỡi vì Bác Hồ và đãng cong sản VN có hô hào yêu nứoc thế nào đi nữa thì đó không phải là mục tiêu và nhiêm vụ của họ trong phong trào Cong san quốc tế III. Xét cho cùng thì thân phận của quí vị đáng thưong vì hảo ý (good will) hơn là đáng vinh danh.