Người Nhật phải bật cười
Ngô Nhân Dụng
Ngày 25 Tháng Tám 2008 tòa án ở Tokyo đã chính thức truy tố bốn vị quản đốc của công ty Tư Vấn Quốc Tế Thái Bình Dương (PCI - Pacific Consultation International). Những người Nhật từng giữ chức chủ tịch, tổng giám đốc, giám đốc điều hành của công ty, và người đứng đầu công ty ở Hà Nội, đã bị bắt để điều tra từ đầu Tháng Tám. Nhân sự kiện này, báo chí Nhật Bản lại có dịp nhắc đến các quan chức Việt Nam ăn tiền như thế nào, đòi bao nhiêu phần trăm rồi mặc cả xuống đến bao nhiêu, đưa tiền như thế nào, vân vân. Toàn là những thông tin mới lạ đối với độc giả người Nhật. Vì ở nước họ chuyện hối lộ rất hiếm, năm bảy năm mới xảy ra một lần, đến nỗi nhiều em học sinh không biết hai chữ hối lộ viết thế nào! Khi các em đem thắc mắc hỏi cô giáo thì bị cô mắng, giống như các em đã mở miệng nói đến một tiếng thô tục làm nhơ bẩn những tâm hồn trong trắng vậy!
Khi tường thuật vụ truy tố mới này, các tờ báo Nhật Bản không quên cho độc giả của họ biết rằng đây là vụ án đầu tiên để xử tội hối lộ các quan chức ngoại quốc theo đạo luật mới năm 1998 ở Nhật Bản.
Ðạo luật bảo vệ cạnh tranh công bình được quốc hội Nhật Bản tu chính 10 năm trước đây, bắt đầu coi việc hối lộ các quan chức ngoại quốc là hành vi bất chính đáng bị trừng phạt. Luật làm ra rồi, nhưng mười năm nay chưa được dùng để xét xử, chưa bắt ai bỏ tù cả. Vì những cuộc điều tra trước đây không thấy những món tiền hối lộ đủ lớn. Các quan chức Mông Cổ chẳng hạn họ ăn ít tiền quá, mấy trăm ngàn đô la ăn không bõ công chùi mép, truy tố làm gì! Nhưng khi các quan chức thành Hồ ăn, là họ ăn bạc triệu!
Có hàng trăm quốc gia chậm tiến đã từng nhận tiền viện trợ của chính phủ Nhật Bản trong chương trình giúp đỡ trực tiếp gọi là ODA. Rất nhiều nước ăn hối lộ của nhà thầu. Nhưng nước Việt Nam Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa đã tiến lên hàng đầu, chiếm bảng danh dự, với thành tích giúp nền công lý Nhật Bản đưa bốn nhà quản lý ra tòa về tội đút lót, hối lộ! Không những nước Việt Nam vượt thắng về số lượng tiền đút lót mà còn hơn hẳn mọi người về chất lượng tham nhũng, khi các quan chức nhận tiền rồi vẫn chối bay chối biến, họ còn được ông thứ trưởng ngoại giao họp báo xác nhận là không có ai trong dự án Ðại Lộ Ðông Tây ăn bẩn cả! Nếu nước Nhật tổ chức một Thế Vận Hội tranh tài về bộ môn ăn hối lộ, các cán bộ trung kiên này chắc chắn sẽ đoạt huy chương vàng làm thành tích dâng lên Ðảng!
Dư luận báo chí Nhật Bản phê phán việc hối lộ là một hành động làm nhục nhã cả dân tộc Nhật trên trường quốc tế. Họ biết rằng một nhà thầu Nhật Bản đi hối lộ để trúng mối thầu thì sẽ làm mang tiếng cả giới kinh doanh Nhật khi đi cạnh tranh ở nước ngoài. Khi anh trúng thầu, người ta sẽ nghi ngờ: Không phải anh thắng nhờ hiến giá thấp, hay anh làm việc có phẩm chất cao, mà chắc chỉ vì anh làm một công việc nhơ bẩn: hối lộ! Một người Nhật Bản làm xấu sẽ khiến cả nước Nhật xấu hổ! Chỉ có báo chí Việt Nam là im thin thít. Không ai được phép viết một câu thú nhận danh dự quốc gia đang bị chà đạp. Tên nước Việt Nam được người ta nói đến trong những bản tin nhục nhã cả tháng trời ở Nhật Bản như vậy. Không nhà báo Việt Nam nào được phép nói một lời, không ai dám đặt một câu hỏi. Phải chăng một nước 85 triệu người đã mất hết cảm tính, đầu óc đã tê liệt, không còn ai biết thế nào là nhục và không còn ai dám suy nghĩ theo lương tâm của mình?
Trước khi qua đời, Trung Tướng Trần Ðộ đã viết những dòng nhật ký chân thành phê phán chế độ chuyên chế mà ông đã góp phần dựng lên. Ông đã nhìn thấy cảnh đó: “Nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của một dân tộc,... ra sức nô dịch toàn bộ tinh thần của nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở thành những con rối chỉ biết nhai như vẹt...” (Nhật Ký Rồng Rắn, ngày 7 tháng 12 năm 2000).
Tướng Trần Ðộ lên án đảng Cộng Sản của ông là: “Tổng hợp các tội ác ghê gớm của Tần Thủy Hoàng và các vua quan tàn bạo Trung Quốc.” Ông may mắn đã nhắm mắt qua đời không phải thấy cảnh chế độ cộng sản làm cả dân tộc Việt Nam nhục nhã trong vụ hối lộ của PCI này.
Ăn đút lót bằng cách bòn rút hàng triệu đô la mà người ngoại quốc đem tới để giúp đồng bào mình, đó đã là một việc ô nhục. Tội rành rành ra đấy, những người Nhật đút tiền họ đã phải thú tội để mai mốt chịu ở tù rồi, còn đám vua quan ăn tiền từ trên xuống dưới vẫn nhơn nhơn chối tội! Không ai thấy nhục hay sao?
Cả nước Nhật biết tên ông Huỳnh Ngọc Sĩ nhận 820 ngàn đô la của PCI, nhưng dân Việt Nam thì không ai được phép hỏi chuyện đó thật hay giả! Không ai dám đòi mở một cuộc điều tra độc lập và công khai để tìm sự thật. Cả nước phải ngậm miệng như vậy mãi mà chịu được hay sao?
Ðúng như lời ông Trần Ðộ viết, chế độ chuyên chính của đảng cộng sản “tàn bạo hơn tất cả các thứ chuyên chính” (viết trong cùng đoạn sách trên). Vì các chế độ chuyên chế khác họ chỉ ăn cướp cơm áo, tài sản, chỉ giết mạng sống con người, cướp đoạt tự do của con người; còn chế độ chuyên chính cộng sản đã “bỏ tù lương tri” và “giết chết lương tâm” của một dân tộc trong nhiều thế hệ.
Tai tiếng vì ăn hối lộ và chối tội đã nhục rồi. Nhưng người ngoại quốc có thể coi đó là do lòng tham tăng lên trong một chế độ đang tàn, khi các con chuột cố vơ vét những mẻ chót trước khi chạy khỏi tầu thủy, chạy ra nước ngoài mang theo đô la, kim cương, và thẻ trương mục ngân hàng ngoại quốc. Nhưng bất ngờ, dân Việt Nam lại chịu nhục nhã hơn nữa khi một ông thứ trưởng ngoại giao lên lớp chính phủ nước Nhật Bản, khuyên bảo họ phải biết dạy dỗ báo chí! Ông Hồ Xuân Sơn muốn chính phủ Nhật phải cấm báo chí nước họ không được đăng tin về vua hối lộ của PCI trước khi tòa án xử! Một ký giả tờ Thời Báo Nhật Bản (Japan Times) đã bật cười khi nghe nhắc đến tin này!
Ai cũng phải bật cười. Giống như một người Mỹ tới Việt Nam mà ngớ ngẩn hỏi một câu ai nghe cũng bật cười vậy! Có một cậu sinh viên người Mỹ đến Việt Nam, thấy trong nhà một nông dân nuôi con nghé, cậu hỏi: Giống chó gì mà lớn thế? Ai cũng phải bật cười! Câu hỏi của ông Hồ Xuân Sơn cũng vậy. Ai cũng thấy ông thứ trưởng ngoại giao này không hề biết những quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là gì cả! Các quan vô sản chuyên chính vẫn ngồi đáy giếng, tưởng rằng cả thế giới người ta vẫn sống như trong chế độ nô lệ mạo danh xã hội chủ nghĩa! Các ông tưởng chính phủ Nhật Bản cũng nắm toàn quyền trên đời sống dân chúng của họ, như đảng cộng sản của các ông nắm đầu nắm cổ dân Việt Nam! Các ông tưởng các báo, đài ở Nhật Bản cũng phải được một Ban Tư Tưởng, Văn Hóa chỉ đạo, mỗi ngày lại ra lệnh được viết cái gì, cấm nói cái gì! Các ông không biết rằng trên thế giới có những dân tộc đã được sống tự do, được nói, được hội họp, được bỏ phiếu tự do; tóm lại là được sống với đầy đủ phẩm giá con người!
Một quan chức cao cấp ngành ngoại giao mà lộ rõ tình trạng dốt nát của mình như vậy, không riêng gì ông ký giả báo Japan Times nghe xong bật cười mà cả thế giới loài người có văn minh cũng phải bật cười nữa. Chỉ người Việt Nam phải cúi đầu hổ thẹn! Quý vị sống ở nước ngoài đừng tưởng câu chuyện tham nhũng hối lộ ở Sài Gòn, Hà Nội chẳng dính gì tới mình. Khi quý vị đi du lịch Nhật Bản, người Nhật chỉ nghe giới thiệu quý vị sinh ở Việt Nam là họ nhớ ngay đến các ông Huỳnh Ngọc Sĩ với Hồ Xuân Sơn. Họ sẽ bẽn lẽn nói lảng sang chuyện khác. Và để giữ phép lịch sự họ sẽ không bao giờ nhắc đến tên nước chiếm huy chương vàng về tham nhũng nữa, vì tôn trọng thể diện khách quý từ phương xa tới!
Nguồn:
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=83385&z=7
Wednesday, August 27, 2008
Vụ án Thầy Thích Thiện Minh chết trong ngục tù cộng sản
Vụ án Thầy Thích Thiện Minh chết trong ngục tù cộng sản (phần 1)
Mạc Thị Hà Tiên. 2008
Nhà sư Thích Thiện Minh (Đỗ Xuân Hàng) chết trong ngục tù cộng sản, 30 năm trôi qua (1978-2008) mà vụ án vẫn còn chìm trong bóng tối. Đến nay hệ quả chung quanh vấn nạn còn ảnh hưởng đến nhiều người; nó chính là luận đề luôn mời gọi nghiên cứu sinh tiến sĩ, học giả tham gia góp phần làm sáng tỏ sự thật lịch sử Việt nam và Phật giáo Việt nam; nó cũng là biến cố cuốn hút với nhiều người theo nhiều cách nhìn khác nhau. Từ lãnh tụ tôn giáo đến Tăng, ni, Phật giáo đồ bởi nhiều lý do mà trên hết chân dung vấn nạn nầy gợi lên gam màu rõ nét về cách hành xử bạo ác của chế độ XHCN với nhà lãnh đạo tôn giáo – Phật giáo; cách “xuống tay” bất nhân vì nó đơn thuần chỉ là một vụ “bị tình nghi về chính trị”. Cho nên, với nhà nước XHCN, vụ án Thích Thiện Minh là một vấn nạn cần phải được che lấp, xóa nhòa; Với các đảng phái chính trị, các đoàn thể dân sự, nói chung là các tổ chức quần chúng đối kháng XHCN thì vụ án Thầy Thích Thiện Minh (1978) cũng như vụ án Linh Mục Nguyễn Kim Điền (1988) là ngọn cờ khơi dậy lòng yêu quê hương dân tộc và tôn giáo trước bảo vũ quốc nạn với pháp nạn Việt nam. Hơn ai hết, với Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất (GHPGVNTN), cái chết của nhà Sư Thích Thiện Minh ngày 18 tháng 10 năm 1978 là vụ án oan khuất, thương tâm cần phải được giải bày để làm rõ tính công minh pháp luật, trả lại sự công minh cho Phật giáo; trên hết phải nói rằng đây là một Đại biến cố với Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất (GHPGVNTN).
Sư Thích Thiện Minh (1922 -1978) Phó Viện trưởng, Viện Hóa Đạo (VHĐ), GHPGVNTN (1971). Quyền viện trưởng Viện Hóa Đạo (1973). Cố vấn Ban chỉ đạo VHĐ (22-01-1977). “Thượng Tọa đã bị tra tấn cho đến chết ngay ở Sàigòn, tại Trại X4 (ở đường Nguyễn Trãi, SG) là trại thẩm vấn (hiểu là tra tấn) và tạm giam trước khi phân phối qua các nhà tù hay trại tập trung. [Sau đó] cộng sản đã chở xác Thượng Tọa [đến khám Chí Hòa, Sài Gòn, nhưng khi xe chở xác Thầy vừa đến cỗng khám Chí Hòa thì “có lệnh trên” phải tức tốc chuyển ngay] ra Hàm Tân [Phan Thiết] để đánh lạc hướng biểu tình của Phật tử ở Sàigòn đang sôi động sau những ngày Thượng Tọa bị bắt. [ * ]
Bối cảnh chính trị miền Nam trước 1975, trong GHPGVNTN xuất hiện nhiều khuôn mặt làm chao đảo chính trường, một trong số đó là Thầy: Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Minh Châu, Thích Trí Thủ, v.v… quí Thầy thường xuất hiện hòa quyện vào nhau, đan xen nhiều mặt, đến nỗi có người nhìn: Thích Trí Quang (phụ trách hành động), Thích Thiện Minh (phụ trách tổ chức - nhà chiến lược), Thích Minh Châu (phụ trách về đường lối), Thích Trí Thủ (phụ trách cơ sở) như là “bộ tứ” gây nên sóng gió với chính trường miền Nam. Thực tế thì GHPGVNTN bấy giờ không phải là một khối. Chính Thầy Thích Tâm Châu đã xé nát GHPGVNTN ra làm hai mảnh mà hệ quả điêu linh không phải là nhỏ và di chứng nó, đến nay chưa dứt. Theo Ông Nguyễn Văn Hiếu, Bộ trưởng Bộ Văn hóa XHCN Việt nam thì có 2 Phật giáo: “Thống nhất với Phật giáo cách mạng chứ thống nhất làm gì với bọn Phật giáo phản động. Như vậy, “Phật giáo phản động” mà Cộng sản kết án thông qua miệng Nguyễn Văn Hiếu, chính là GHPGVNTN Huyền Quang – Quảng Độ, Thầy Thích Thiện Minh thuộc Giáo Hội nầy và là Thánh tử đạo thời pháp nạn XHCN. Hơn 30 năm trôi qua (1978-2008) đến nay, chung quanh vụ án còn nhiều ẩn số mà những kẻ “dấy máu ăn phần” trong vụ án nầy còn đang dấu mặt, họ tiếp tục gây phân hóa GHPGVNTN trong và ngoài nước mà chùa Phật giáo Việt nam, Houston, Tesax, Hoa kỳ của Thầy Thích Nguyên Hạnh, là một trong những “bãi đáp” được đặc tình Thích Thông Kinh bao thầu kinh tài “trọn gói”. Xin hỏi “Bát đại Huề thượng” xã nghĩa: họ là ai? [ * ]
1. Bối cảnh pháp nạn chung quanh cái chết Thầy Thích Thiện Minh
Sau 1975 cộng sản vào thành, lúc XHCN “cờ thắng trong tay” cũng là lúc GHPGVNTN (Phật giáo Ấn Quang, nhóm theo lập trường dân tộc) bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Điều nầy cũng có nghĩa là ngay cái ngày 30-04-75 nhà nước XHCN đã không nhìn nhận sự có mặt của GHPGVNTN rồi. Khơi nguồn pháp nạn XHCN cũng bắt đầu từ đó nỗ ra và lan rộng toàn quốc từ Quảng Trị đến Cà Mau rồi đưa đến cái chết của nhà sư Thích Thiện Minh là một điển hình.
Nhà tù XHCN với GHPGVNTN mở ra mô thức ngục tù mới gọi là “Nhà tù 4 phòng”: 1. “Sống không nhà; 2. Chết không mồ; 3. Đi không đường; 4. Tù không tội; Ngoài ra còn có “nhà tù di động” (lúc nào công an cũng bám theo thành viên GHPGVNTN); Rồi “nhà tù bay” là loại đã áp tải Thượng tọa Thích Không Tánh từ Hà Nội về Sài gòn (2007); là loại nhà nước dự kiến áp tải Ngài Thích Huyền Quang, Tăng thống GHPGVNTN ra Hà Nội để đưa lên ngôi Pháp chủ năm 2007. XHCN cướp giựt toàn bộ giáo sản Giáo Hội nầy từ tỉnh Quảng Trị đến Cà Mau. Các cơ sở Từ thiện (như Cô nhi viện Quách Thị Trang), Cơ sở giáo dục (như Viện Đại học Vạn Hạnh, hệ thống Trung tiểu học Bồ Đề), Cơ sở xã hội (như lớp học Tình thương) v.v… Pháp nạn diễn ra thật kinh hoàng, khủng khiếp. Chỉ trong vòng 22 tháng (từ tháng 05-1975 đến tháng 03-1977), Viện Hóa Đạo đã có đến 85 (tám mươi lăm) Kháng Thư gởi đến nhà nước CHXHCNVN, thế nhưng không có vụ án nào được xét xử cả. Tiếp sau đó, Nhà nước tiến hành Thống nhất Phật giáo theo mô hình đưa chính trị vào tôn giáo, áp lực Phật giáo nằm trong Mặt trận tổ quốc, Quí Thầy Thích Đôn Hậu, Thầy Thích Thiện Minh, Thầy Thích Huyền Quang, Thầy Thích Quảng Độ, phản kháng quyết liệt, biến cố đã đặt GHPGVNTN trước cơn bảo lũ pháp nạn thảm khốc. Tiếp đến,
1975-05. Liên hiệp thanh niên, sinh viên Sàigòn Gia Ðịnh chiếm cứ Văn phòng Tổng vụ Thanh niên (Trung Tâm Quảng Ðức ở số 294 Công Lý Sàigòn) của Thầy Thích Thiện Minh.
1976-07-22 Thủ Tướng Phạm văn Đồng ban hành Quyết định QĐ 310/TT.G theo đó Tu sĩ các tôn giáo tuổi từ 18 đến 25 phải thi hành nghĩa vụ quân sự. Kết quả là hàng ngàn Tăng sĩ trẻ Phật giáo trên khắp đất nước đặc biệt là miền Trung và Nam Việt Nam phải lên đường tòng quân, một số không muốn cởi áo ca sa trở về thế tục đã phải sống trốn tránh ở các địa phương khác trong tình trạng không có giấy tờ tuỳ thân, không nơi cư trú. Thậm chí nhà sư phải lang thang hè phố, sống vô gia cư, hiện trạng bấy giờ đã gợi lên chân dung tôn giáo XHCN thật thảm não.
1977, Thầy Thích Thiện Minh cố vấn Viện Hóa Đạo (VHĐ) ra thông cáo phản đối việc nhà nước buộc Tăng sĩ trẻ đi nghĩa vụ quân sự.
1977-01-21. Đại hội 7, GHPGVNTN, Thầy Thích Thiện Minh giữ chức Cố vấn VHĐ, GHPGVNTN
1977-03-11 Nhà nước chiếm dụng toàn bộ trụ sở (05-1975 chỉ chiếm có 1 phần) Tổng Vụ Thanh niên (đường Công Lý), tống xuất Thầy Thích Thiện Minh, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Thanh niên ra khỏi trụ sở và xóa bỏ quyền cư trú của ngài (xóa tên trong sổ gia đình cũ, không cho lập sổ hộ khẩu mới), Thầy Thích Thiện Minh đã phải lang thang rày đây mai đó, từ chùa viện đến niệm Phật đường. Thế nhưng đến đâu Thầy cũng bị công an xua đuổi bằng cách gây khó khăn với các vị trú trì chủ hộ nơi mà Thầy dừng chân, tạm nghĩ.
1977-04-09. Thông cáo VHĐ/TC/VP
Thầy Thích Thiện Minh phát “Lời kêu gọi 6 điểm bảo vệ Nhân Quyền tại nước CHXHCNVN” gởi đến nhà cầm quyền CSVN đòi hỏi : 1. Thả tù nhân chính trị, tôn giáo và hàng trăm ngàn người khác đang ở trong các trại cải tạo. 2. Thi hành nghiêm chỉnh chính sách tự do tín ngưỡng. 3. Chấm dứt tình trạng tham nhũng của nhân viên chính quyền các cấp. 4. Cho phép những người có khả năng, những người không phải đảng viên của Cộng sản được phép tham gia vào công cuộc xây dựng xứ sở theo khả năng chuyên môn. 5. Yêu cầu cho phép các tu sĩ và tín đồ thuộc các tôn giáo được tiếp tục làm các công tác xã hội mà không phải từ bỏ tôn giáo tín ngưỡng của mình. 6. Phá bỏ mọi bất công, kỳ thị giữa các đảng viên cộng sản và nhân dân. Mọi người đều có quyền công dân.
1977. Thầy Thích Trí Thủ cho biết là “Mặt trận mời tôi với tư cách Viện trưởng Viện Hóa Ðạo GHPGVNTN” tham gia Thống nhất Phật giáo, Hòa thượng đưa việc đó ra hỏi ý kiến Hội Ðồng Viện Hóa Đạo, Thầy Thiện Minh nhân đó xin phát biểu:
“ Xin Hòa thượng Viện Trưởng đừng đưa việc đó ra đây làm khó chúng tôi !”
Hòa thượng Trí Thủ hỏi lại: "Làm khó cái gì?"
Hòa thượng Thiện Minh thưa: " Nếu Hội Ðồng nầy đồng ý để Hòa thượng làm việc đó với tư cách Viện trưởng Viện Hóa Ðạo, tức là đồng ý dẹp bỏ Giáo Hội này sau khi Giáo Hội mới thành lập. Còn nếu không đồng ý, thì có sự khó khăn đến với các vị trong Hội Ðồng và cả Giáo Hội ta nữa. Vậy Hòa thượng nên tự ý lựa chọn và làm với tư cách cá nhân của Hòa thượng mà thôi. Chúng tôi không thể nói nên hay không nên trong việc nầy" .
Lúc bấy giờ trong cuộc họp không ai có ý kiến gì khác, coi như mặc nhiên đồng ý với Thầy Thiện Minh đã nói. [ * ]
1977? Mai Chí Thọ Giám đốc công an Thành Phố HCM, trong cuộc họp với Phật Giáo, ông Thọ đã tuyên bố: “có thể quý thầy nói hàng ngàn người nghe, chúng tôi nói không ai nghe, nhưng chúng tôi có súng, có nhà lao, có quân đội. Tất cả chúng tôi có trong tay. Liệu các thầy có chống đối được không và chống đối đến bao giờ?”
Thầy Thích Thiện Minh trả lời: “tôi nghĩ rằng có lẽ ông đã nói sai. Hơn ai hết ông biết rằng trong suốt thời gian đương đầu với Pháp và với Mỹ, kẻ khác chứ không phải là ông đã nói ra những câu tương tự như vậy. Lịch sử đã chứng minh rằng súng đạn và nhà tù không phải là tất cả, lại càng không phải là yếu tố tất thắng. Một Ngô Ðình Diệm với 9 năm cai trị bằng mật vụ; một Tần Thủy Hoàng với chính sách bạo ngược đốt sách, chôn học trò. Kết quả như thế nào? Ðúng, chúng tôi, một tất sắt cũng không có trong tay và các ông thì có tất cả. Nhưng chúng tôi biết bài học lịch sử".
Cùng với Viện Hóa Đạo, Thầy Thiện Minh đã phản kháng mạnh mẽ trước những áp lực nặng nề của nhà nước XHCN giáng xuống GHPGVNTN. Những biến cố như thế đặt Thầy Thích Thiện Minh trước vô vàn nguy hiểm! Rồi Thầy bị bắt ngày 13-04-1978, bị giam giử, tra tấn và …
2. Thầy Thích Thiện Minh, Những năm tháng cuối đời.
Thầy Thích Thiện Minh bị bắt ngày 13 tháng 4 năm 1978. Bị giam giữ, tra tấn dã man ròng rã suốt 6 tháng trường, Thầy mất ngày 18-10-1978. Cộng sản buộc Thầy 3 việc: 1. Âm mưu đứng ra tổ chức chống phá cách mạng? và 2. Ký giấy giải tán Giáo Hội Phật Giáo Việt nam Thống Nhất. 3. Thầy phải giao nộp con dấu Viện Hóa Đạo cho họ. Nhưng Thầy đã cương quyết không chấp thuận. Chúng hỏi Thầy tại sao không chấp nhận. Thầy Thích Thiện Minh đã trả lời “Giáo Hội là Giáo hội của Phật tử. Các ông bảo chúng tôi ký giấy giãi tán Giáo Hội thì làm sao chúng tôi dám ký. Phật tử đã bầu chúng tôi làm Quyền Viện Trưởng Viện Hoá Đạo nhưng Giáo Hội không phải của riêng tôi. Nếu các ông muốn chúng tôi ký giãi tán Giáo Hội thì các ông hãy thả tôi ra, cho tôi triệu tập Phật tử để hỏi họ có bằng lòng giải tán Giáo Hội không?” Thầy Thích Thiện Minh vừa nói xong tức tốc bọn công an Việt cộng đánh bể hai hàm răng, đập đầu Thầy vào tường hết sức tàn bạo và Thầy đã ngất đi. Sau đó chúng đổ nước cho tỉnh lại rồi tra tấn tiếp.
Tên công an gằn giọng:
- Tôi hỏi lần cuối cùng: ông có chịu ký vào biên bản nhận mình có âm mưu đứng ra tổ chức chống phá cách mạng không? Thượng Tọa Thiện Minh lắc đầu: Không. Tên công an đập bàn quát:
- DM mày ngoan cố hả? Thượng Tọa Thiện Minh vẫn điềm đạm:
- Tôi không ngoan cố. Tôi chỉ đòi hỏi ông nêu ra những bằng cớ chính xác chứng minh là tôi đứng ra âm mưu tổ chức chống phá cách mạng. Thế thôi.
Tên công an gừ gừ mấy tiếng trong cổ họng nhưng cuối cùng hắn vẫn nín khe. Hắn guờm gườm nhìn vị Thượng Tọa ốm yếu đang ngồi xiêu vẹo trước mặt. Đôi long mày sâu róm của hắn cau lại, đôi môi giật giật liên hồi, mắt hắn long lên như đổ lửa. Rồi hắn đúng dậy, rít lên trong kẻ răng:
- Được, mày muốn, ông sẽ chứng minh cho mày thấy.
Hắn quay ra ngoài, gọi lớn:
- Đính đâu?
Một tên công an mặt mũi non choẹt nhưng hung ác te tái chạy vào:
- Thưa thiếu tá, có em.
Tên thiếu tá công an nhìn Thượng Tọa Thiện Minh, hất hàm:
- Đánh.
Không cần lời ra lệnh thứ hai, Đính hiểu ngay. Hắn bước từng bước chậm chạp lại gần thầy Thiện Minh. Thầy cố trấn tỉnh chờ đợi. Thầy nghe tiếng chân hắn khua trên nền gạch. Thầy nhìn bàn tay hắn co lại. Và thầy thấy hình như cánh tay hắn vung lên. Thầy bật người ra sau, ngã sóng soài dưới đất. Mắt hoa lên thấy cả một trời sao lấp lánh. Hai vệt máu từ từ lăn ra hai bên khoé miệng. Thầy rán lồm cồm bò dậy. Đính lặng yên đứng ngó: hắn đang chờ lệnh tiếp. Tên thiếu tá công an hất hàm:
- Tiếp.[hết trích]
(Bảo Trâm, [Lê Xuân Thuấn Kể], Câu chuyện Thầy Thích Thiện Minh, đd, tạp chí Quê Mẹ số 90 & 91, Paris, 1988)
Thầy bị đánh đập dập nát mặt mày, vỡ đầu, bị hành hạ đến sa sút, tiều tụy. Sau đó bị biệt giam trong phòng tối tăm, lột bỏ quần áo mà Thầy vẫn kiên cường đối kháng cho đến chết.
Dính dự trực tiếp đến cái chết của Thầy Thiện Minh là công an thành phố, trại X4 Sài gòn. Chính tên Đính công an chấp pháp, ra tay đánh chết Thầy Thiện Minh và 1 tên Thiếu tá truyền lệnh và chứng kiến cho tên Đính hành sự; tên Thiếu tá nầy lại nhận lệnh từ cấp trên là Lê Thanh Vân (Ba Vân?, con của sư Thích Thiện Hào, chùa Xá Lợi, TP thành Hồ, Phật giáo quốc doanh). Thảm sát cố Hoà Thượng xong bọn công an Việt công chuyển xác Thầy từ trại tạm giam X4 (số 258 đường Nguyễn Trãi) quận 1, công an thành phố về khám Chí Hòa. Thế nhưng khi xe chuyển xác vào đến sân khám Chí Hòa thì có “lệnh trên” bảo phải tức tốc chuyển ra Hàm Tân, Phan Thiết. (Bảo Trâm, [Lê Xuân Thuấn kể], Câu chuyện Thầy Thích Thiện Minh (xem phụ lục cuối bài). Nhân đây cũng nên tra cứu xem, trưởng phòng chấp pháp trại X4, công an TP vào năm 1978 là ai? Lật lại hồ sơ công tác chuyển tử tội Đỗ Xuân Hàng (Thích Thiện Minh) từ khám Chí Hòa – Hàm Tân tháng 10-1978 là gồm những ai?
Hai hôm sau, Thầy Thích Trí Thủ, chùa Già Lam, Gò Vấp, Viện trưởng VHĐ nhận được Giấy báo tử của phường, giấy chỉ có mấy dòng chữ: “Ông Đỗ Xuân Hàng, tên đạo là Thích Thiện Minh, sinh năm 1921 tại Quảng Trị, chết tại trại giam Hàm Tân thuộc huyện Hàm Tân tỉnh Thuận Hải vào ngày 18.10.1978. Lý do: bệnh”(câu chuyện Thầy Thiện Minh đd). “Trước sân chùa Quảng Hương Già lam ở Gò Vấp, Hòa Thượng Thích Trí Thủ cầm tờ giấy báo tử mà cứ ngơ ngẩn như xuất thần. Ông đọc đi đọc lại tờ giấy mỏng dính, vàng khè ấy không biết bao nhiêu lần. Vẫn có chừng ấy chữ. Nội dung thật vô cùng đơn giản. Thế mà nỗi thương tâm đau tận ngút ngàn”. Thầy Thích Trí Thủ cùng với vài vị Tăng trong Giáo hội cùng đi theo đoàn ra Hàm Tân nhận xác Thầy Thiện Minh. Theo người biết chuyện, Thượng tọa Thích TS (nghe nói cũng từng du học Ấn Độ, hiện nay định cư Hoa Kỳ) người đã từng thăm nuôi trường kỳ Thầy Lê Mạnh Thát lúc Thầy Thát còn trong nhà tù (Lê Mạnh Thát bị đi tù năm 1984) thì trong chuyến đi ra Hàm Tân bấy giờ có tiến sĩ Lê Mạnh Thát và người tiếp theo trong danh sách được nhận diện là Thượng tọa Thích Trí Quảng, chùa Ấn Quang, người đại diện cho Phật giáo Ấn Quang). Lúc bấy giờ nhà nước phân công tác cho Thầy Trí Quảng đại diện Phật giáo Ấn Quang. Thầy Trí Quảng cũng có mặt trong chuyến đi Cần Thơ trong âm mưu “hợp thức hóa” vụ án 12 vị Tăng ni Thiền viện Dược Sư tỉnh Cần Thơ tự thiêu cùng lúc vào tháng 11-1975.
Thầy Thích Trí Thủ với công an Hàm Tân, Phan Thiết:
Hòa thượng: xin được vuốt mặt người quá cố. Công an Hàm Tân không cho; Xin mang thi hài người đã mất về mai táng, cũng không cho; xin tham dự buổi lễ mai táng, cũng không cho; xin tụng 1 thời kinh ngắn cho người mất, cũng không cho. Tất cả, công an đều không cho với lý do: “cho dù đã chết, ông Đỗ Xuân hàng vẫn là 1 tội nhân”, mà tội nhân thì Nội qui trại không cho những yêu cầu như thế. Sau đó, thi thể của Thầy Thiện Minh bị chôn nhanh tại trại tù Hàm Tân, Phan Thiết và mọi dấu vết đã được xóa sạch. Đã thế, cộng sản cũng chưa “an lòng”. Về sau, họ xúi Thầy Thích Minh Nghị, công an nằm vùng Viện hóa Đạo, cải táng Thầy Thiện Minh đem đi thiêu lại, để sau nầy không còn có thể khám nghiệm tử thi được nữa (Thích Minh Nghị xem ở phần sau). Thế để biết, bàn tay bọn giáo gian góp phần không nhỏ kéo dài pháp nạn XHCN là như thế. Còn nỗi đau nào hơn! GHPGVNTN mất đi “con chiến mã” ngã quỵ sa trường. Chỉ vì kiên trì không cho bọn cộng sản chiếm đoạt GHPGVNTN mà Thầy đã phải vong thân. Quí Thầy trong Viện Hóa Đạo đã có phản ứng gay gắt vụ nầy như Thầy Thích Đôn Hậu, Thầy Thích Huyền Quang v.v…
“Mới đây, ông Lê Xuân Thuấn, nguyên là một cán bộ công an làm việc tại Viện Khoa học hình sự thuộc Bộ Nội vụ của cộng sản VN, không chịu đựng nổi sự thống trị nghiệt ngã dã man và vô cùng sảo quyệt của cộng sản, đã vượt biên tìm tự do. Trong thời gian công tác, ông Thuấn đã chứng kiến những sự kiện liên quan đến cái chết của T. T. Thích Thiện Minh từ đầu đến cuối thật khá rõ ràng. Nên từ trại tạm cư ở Thái Lan ông biên thư đã kế lại chi tiết gửi đến tạp chí Quê Mẹ ở Paris (Bảo Trâm, Câu chuyện Thầy Thích Thiện Minh) [ * ].
Được hỏi thăm từ Paris, cố Hoà thượng Thích Trí Thủ viết thư đề ngày 7.11.1978 cho đạo hữu Võ Văn Ái, Chủ nhiệm tạp chí Quê Mẹ và Chủ tịch Uỷ ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam, có mấy dòng xác nhận như sau : “... Thầy Thiện Minh đã qua đời một cách hắc ám tối tăm trong cơ cực, tin cho bà con biết. Khi Thầy nằm xuống, không một thân nhân ở đó. Khi được tin thì tôi cũng chỉ được quyền ngó mặt rồi họ giục về cho họ đi chôn. Muốn ở lại thêm họ cũng không cho (...)”. (Xem tư liệu trong tạp chí Quê Mẹ số 90 & 91, Paris 1988)
Vì sao nhà nước XHCN lại ngụy trang, chuyển xác Thầy Thích Thiện Minh ra Hàm Tân, Phan Thiết trong khi sự thật thì Thầy chết trong trại tra tấn X4 ở Sài gòn. Cũng dễ hiểu thôi, bởi lúc bấy giờ, tin Thầy Thích Thiện Minh vừa mất thì sáng hôm sau đài BBC đã đưa tin nóng nầy: “Hòa thượng Thích Thiện Minh thuộc GHPGVNTN đã chết trong nhà tù cộng sản” loan ra khắp thế giới. Dư luận Phật giáo thành phố lúc bấy giờ vô cùng câm phẩn, có thể bùng lên cao trào phản kháng nhà nước mạnh mẻ. Cho nên nhà nước đưa xác Thầy Thiện Minh ra Hàm Tân, Phan Thiết cách xa thành phố, đường đi, giao thông tồi tệ của những năm 1978 sẽ hạn chế được những điều bất trắc cho Xã nghĩa.
3. Thầy Trí Quang, Thầy Trí Thủ với cái chết của Thầy Thích Thiện Minh trong cách nhìn tham chiếu.
Nói thẳng vấn đề, một người tù chết trong nhà giam thì trách nhiệm đương nhiên thuộc về nhà nước. Ở đây hãy tìm hiểu cụ thể xem vai trò Thầy Trí Quang, Thầy Trí Thủ ra sao đối với cái chết của Thầy Thiện Minh và ai là người “dấy máu ăn phần” hoặc trực tiếp hay gián tiếp đến vụ án cũng như diễn biến chung quanh vụ án ra sao?
Thông thường, Nhà nước XHCN xử dụng giáo gian nhằm vào nhiều việc như: Một là tham khảo nội tình Phật giáo; hai là tham vấn [giáo gian] với tư cách là tổ chức vòng ngoài (những vị Sư quốc doanh, Linh mục quốc doanh) của họ trước khi nhà nước hành xử vụ việc, nhất là đối với những vụ “nghiêm trọng”; và ba là núp sau hậu trường, đẩy sư quốc doanh ra lãnh trách nhiệm trong thanh trừng, xóa sổ thành viên tôn giáo chống đối. Biến cố đưa đến cái chết của sư Thích Thiện Minh cũng không ngoài thông lệ như thế, nghĩa là có sự “gật đầu” của đám giáo gian chóp bu: Trí Quang, Trí Tịnh, Trí Thủ, Minh Châu, Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm, Hoàng Văn Giàu … Nhà nước đề xuất, giáo gian “gật đầu”; Mai Chí Thọ, Bộ trưởng Bộ nội vụ xuống lệnh, công an thành Hồ thi hành. Chung quanh cái chết của Nhà sư Thích Thiện Minh, có bàn tay giáo gian dính dự, giáo gian kia là những ai? Vai trò Thầy Trí Quang, Thầy Trí Thủ là thế nào.
Bấy giờ 1978 chiến dịch đánh phân hóa GHPGVNTN lên cao, nhà nước áp lực Viện Hóa đạo phải hợp thức hóa việc họ cướp giáo sản Giáo hội. Hoà thượng Thích HK phụ tá Tổng vụ Tăng sự GHPGVNTN (nhân chứng hiện còn sống tại TP HCM), người làm việc nhiều năm trong văn phòng Viện Hóa Đạo cho rằng Nhà nước xuống lệnh cho Hoà thượng Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN phải làm văn bản hiến cúng toàn bộ cơ sở Giáo sản GH cho nhà nước. Sư Thích Trí Thủ vốn là nhà sư Thân cộng ngay từ thời còn ở Ba La Mật, Huế. Nay trước áp lực XHCN nên đã dễ dàng làn văn bản giao hiến toàn bộ giáo sản GHPGVNTN từ Quảng Trị đến Cà Mau cho nhà nước. Văn bản sọan xong (có 3 người trong danh sách tình nghi dính dự đến soạn ra văn bản nầy là Lê Mạnh Thát, Thích Minh Châu và Thích Tuệ Sỹ), Hòa thượng Thích Trí Thủ trình cho Thầy Thích Thiện Minh (Đỗ Xuân Hàng), cố vấn VHĐ xem và “xin thỉnh ý”. Xem qua văn thư, Thầy Thích Thiện Minh bất bình quát lên: “bộ không sợ mất đầu à! Giáo sản là của Giáo Hội [của toàn thể Tăng ni, Phật giáo đồ] chứ là của mình đâu mà giao hiến”. Thầy Thiện Minh rất giận dữ nói tiếp: “việc lớn lao trọng đại như ri, sao không bàn trước, nay Thượng tọa đã ký [tên vào văn bản] rồi, thì còn ý kiến chi nữa! Liền sau đó, Thầy Thích Thiện Minh xé nát văn bản đang cầm trên tay. Việc nầy Thầy Thích Trí Thủ đem trình lên Sư Thích Trí Quang, Trí Quang phản ứng bằng sự “im lặng khó hiểu”. Sau vụ đó (vụ phản đối Sư Trí Thủ bàn giao Giáo sản GH cho nhà nước) không lâu sư Thích Thiện Minh bị bắt để đưa đến cái chết. Cho nên người biết chuyện cho rằng Thầy Thiện Minh bị bắt là có dự phần của Thầy Trí Thủ cũng như sự “gật đầu” của Thầy Thích Trí Quang. Trí Quang với Trí Thủ luôn “chung vai gánh vác việc Thống nhất Phật giáo, việc nầy Đỗ Trung Hiếu, Thống nhất Phật giáo đã xác định như thế.
31. Vai trò Thầy Thích Trí Thủ.
11- 03-1977, Trung tâm Quảng Đức, Trụ sở Tổng vụ Thanh niên (xưa là đường Công lý, nay là 294 Nam kỳ khởi nghĩa, đối diện chùa Vĩnh Nghiêm, Q3, Sài Gòn) bị khám xét, Thầy Thích Thiện Minh bị thâu thẻ cư trú, bị trục xuất khỏi nơi cư trú Trung tâm Quảng Đức. Thầy lang thang đó đây, bị khủng bố cao độ, không một chùa nào trong thành phố thành Hồ cho Thầy tạm trú bởi áp lực của công an. Cho nên Thầy về chùa Già Lam, Gò Vấp, Gia Định, tạm nương náu nơi đây. Nhà nước lại đến chùa Già Lam hỏi giấy tờ, Thầy không còn giấy tờ (giấy tờ đã bị họ đã giữ lấy) nên họ trục xuất Thầy khỏi chùa Già Lam. Do đó, Thầy về Lái Thiêu (Thủ Đức) tìm kế sinh sống. Ngày nọ Thầy ngồi ô tô trên đường từ Sài Gòn qua Gia định về Lái thiêu thì bị chận bắt với lý do vượt biên! Từ Sài gòn đi Lái Thiêu mà vượt biên ư? “Như thế thì mỗi ngày có hằng triệu người vượt biên đó, sao nhà nước không bắt mà chỉ bắt có Thiện Minh?” (Lời Thầy Thích Đôn Hậu chất vấn nhà nước).
Thầy Trí Thủ, Viện trưởng VHĐ với Thầy Thiện Minh, Phó Viện trưởng, VHĐ, cả 2 đã từng kề vai chung gánh việc Phật, việc Giáo hội qua bao cơn bảo dữ. Thế tại sao Thích Trí Thủ chùa Già Lam mà không giữ nỗi Thầy Thiện Minh nơi Mái chùa Già Lam, được sự bao bọc trong khuôn viên nhà chùa thì có an toàn hơn không, hơn là để Thầy phải lang thang rày đây mai đó bởi không một chùa nào lúc bấy giờ dám chứa Thầy cả. Dù rằng nhà nước áp lực không cho Thầy Thiện Minh ở chùa Già Lam là một lẽ. Thế nhưng hơn ai hết, Thầy Trí Thủ vốn biết rằng để Thầy Thiện Minh ra khỏi chùa Già Lam, lang bạt trên hè phố của những năm 1978, là lúc giai kỳ pháp nạn lên cao như thế thì cũng đồng nghĩa với Thầy “gật đầu” đưa đến cái chết cho Thầy Thiện Minh rồi. Chờ người ra khỏi nhà rồi tạo tai nạn giao thông như cái chết của nhà văn Lưu Quang Vũ [ * ] hay cộng sản âm mưu hại Thầy Thích Chánh Lạc, Hoa Kỳ qua Văn Thư Mật số 023/MV của CSVN vào năm 1999 ” [ * ]. Theo chỉ thị mật “Hãy triệt hạ bọn chống đảng và nhà nước ở Hải Ngoại và kế hoạch “Bằng mọi cách phải đuổi tên Chánh Lạc ra khỏi chùa Như Lai thì chúng ta mới có cơ hội diệt trừ nó”. Việc nầy cũng như tai nạn giao thông về cái chết của Ni sư Thích nữ Trí Hải 2003 đến nay vẫn còn trong nghi vấn bởi bàn tay cộng sản dự vào. Cho nên ngoảnh mặt để Thầy Thiện Minh ra đi khỏi chùa Già Lam, Thầy Trí Thủ xử sự như thế, mà Thích Trí Quang thì lặng thinh, sự im lặng khó hiểu của trí Quang trong trường hợp đó cũng có nghĩa là đồng tình rồi.
32. Vai trò Thầy Thích Trí Quang.
Nghi vấn Thích Trí Quang “gật đầu” đưa đến cái chết của Thích Thiện Minh càng rõ hơn nữa đó là. Sau khi vừa ra tù 14-01-1993 Thầy Thích Đức Nhuận, Cố vấn Ban chỉ Đạo Viện Hoá Đạo [ * ] đã đến thăm Sư Thích Trí Quang. Trong câu chuyện hàn huyên, Thầy Thích Đức Nhuận tỏ ý rằng việc Ngài được ra tù là do Quốc tế Nhân quyền can thiệp .v.v... Thích Trí Quang lại lên giọng kẻ cả: “đừng có mà hí hửng!
Việc nầy làm cho mọi người nhớ lại việc Thầy Thích Trí Tịnh “mách nước” với nhà nước (khi được nhà nước hỏi. Mà có lẽ nhà nước cũng chẳng cần hỏi, bởi biết Trí Tịnh là loại nhiệt tình có dư trong việc triệt hạ người cùng sắc áo kia mà) rằng “muốn giết rắn phải đập đầu nó” đã đưa đến việc nhà bắt Thầy Quảng Độ lần I và kết án 5 năm tù năm 1995, hay năm 1982 lưu đày về quê quán hai Thầy Huyền Quang và Quảng Độ cũng tương tợ như thế. Thích Quảng Độ, Nhận định về những sai lầm tai hại … [ * ]. Cũng như việc Sư Thích Minh Châu chụp mũ Thầy Thích Quảng Độ là: “Thượng Tọa Quảng Ðộ [lược] triệt hạ uy tín toàn Ban Vận Ðộng Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam phá hoại công cuộc thống nhất Phật Giáo, phản lại nguyện vọng tha thiết của tuyệt đại đa số Tăng Ni và đồng bào Phật tử cả nước, ngang nhiên thách thức với chánh phủ và Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. (Biên bản Ban vận động Thống nhất Phật giáo [ * ].
Những điển hình trên cho thấy Ba lãnh tụ GH Phật giáo quốc doanh (Thích Trí Quang, Thích Trí Tịnh, Thích Minh Châu) đang tâm triệt hạ Ba nhà lãnh đạo GHPGVNTN (Thích Thiện Minh, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ) là như thế đó. Cho nên Thành viên VHĐ, giới biết chuyện lúc bấy giờ chuyền tai nhau rằng “đưa đến cái chết của sư Thích Thiện Minh có sự “gật đầu” của sư Trí Quang là có cơ sở chứ không là nhận thức tùy tiện.
23-02-1969 Thầy Thích Thiện Minh bị chính quyền ông Thiệu bắt giữ, sau đó Thầy bị truy tố ra tòa với những tội danh: “phản nghịch, chứa chấp vũ khí bất hợp pháp và chưá chấp du đãng trốn quân dịch”. “TT Thích Thiện Minh bị mang ra xét xử trước toà án Mặt Trận Vùng Ba Chiến Thuật trong ba ngày, 12, 14,15 tháng 3/1969, và bị lên án 15 năm khổ sai. Thượng toạ được chính quyền miền Nam ân xá ngày 30/10/1969, nhờ sự can thiệp của Ân Xá Quốc Tế và phái đoàn Hoa Kỳ trong đó có dân biểu John Conyers.”
Ngay Luật sư Nguyễn Văn Chức, một Thượng Nghị sĩ Công giáo, vốn không ưa Phật giáo cũng đã nhận định rằng : “Riêng TT Thích Thiện Minh vẫn một lòng với đạo pháp và dân tộc, vì vậy đã bị Việt cộng tống giam, rồi chết trong tù. Phải chăng cái chết cuả Thượng Toạ Thích Thiện Minh đã khẳng định một sự thật? Sự thật đó, là: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thời Việt Nam Cộng Hòa không phải là Phật Giáo Ấn Quang của nhà sư Trí Quang thời đó, cũng không phải là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam quốc doanh hôm nay của Việt cộng. (Nguyễn Văn Chức, Thích Trí Quang và tôi) [ * ]
Như vậy, ngay từ những năm 1969, cách nay đã 40 năm mà Luật sư Nguyễn Văn Chức đã thẳng thắng vạch mặt “những kẻ núp sau tấm áo cà sa để tranh đấu gian lận, một chiều, phá họai chính quyền Quốc Gia, đâm sau lưng các chiến sĩ Quốc Gia, trói tay Quân Đội VNCH, và tiếp tay cho cộng sản thôn tính miền Nam.” của Thích Trí Quang rồi.
Vài điển hình như trên cho thấy Thích Trí Quang tìm luật sư biện hộ cho Thầy Thiện Minh là vì nếu để mất một Thiện Minh thao lược về tổ chức GH thì lấy ai làm “tướng quân mười đạo” bôn ba xông xáo cho ván bài mượn GHPGVNTN “làm bệ phóng” của Trí Quang. 10 năm sau (1969-1978), đến 1978 khi Thầy Thiện Minh chết trong ngục tù cộng sản, bấy giờ với Thầy Trí Quang, “giải phóng xong rồi” và Thầy Thiện Minh còn đó thì biết đâu, một Thiện Minh chống cộng lại là một “chướng ngại” với Nhóm Già Lam thân cộng nữa là. Cho nên không hề nghe, thấy Thầy Trí Quang bôn ba tìm Luật sư chống án cho Thầy Thiện Minh trong chế độ XHCN như Trí Quang đã từng làm thuở 1969 mà chỉ thấy đơn độc một mình Thầy Thích Đôn Hậu gào thét lên án bọn ác ôn cộng sản, chia sẻ chút tình thâm pháp lữ với bạn đồng liêu qua Đơn từ chức Đại biểu Quốc hội khóa 6 (1978) nhà nước XHCN (Hòa thượng bị áp chế ghi tên ứng cử Quốc Hội) như đã biết. Bấy giờ Thầy Trí Quang ở ngỏ ngách mô? sao lại ngậm câm như hến vậy. Thầy Thiện Minh từ bị bắt cho đến lúc mất là ròng rã hơn 6 tháng trường (04-1978 đến 10-1978) trong ngục tối, thế mà Thầy Trí Quang bình chân như vại, gặp chuyện quay lưng vào vách (xúc sự diện tường) như thế thì có đáng bậc trượng phu chăng? Với những ai đã từng tâng bốc ông ta: lên hàng “Trí Quang thượng nhân” thì qua cách ứng xử của Thái Thượng Hoàng Phạm Văn Bông trước cái chết của Thầy Thích Thiện Minh xin kẻ đó hãy cáo khắp với mọi người mà rút lời vàng tâng bốc hố kia lại và trả “nhà sư có tham vọng chính trị” trở về nguyên chất của ông ta đi.
Cho nên, Người biết chuyện cho rằng cái “gật đầu” của Thích Trí Quang như là “giọt nước tràn ly” đưa đến cái chết của Thầy Thích Thiện Minh. Như vậy, trước cái chết của Thầy Thích Thiện Minh, Thầy Trí Quang, Thầy Trí Thủ, kể cả Thầy Minh Châu, Hoàng Nguyên Nhuận tức tên Hoàng Văn Giàu Phật tử giả hiệu nằm vùng cùng nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường ở Huế, và Thích Minh Nghị có góp phần “chấm - mút” ít nhiều. Việc nầy hãy để lịch sử chấp bút. Có điều là 3 năm sau, đến 1981 Thầy Thích Minh Châu “muốn mượn chiếc búa tạ để đập nát hạt đậu nhỏ” qua việc “gật đầu”, xuống tay, hạ bút đưa đi đày hai Thầy Huyền Quang với Quảng Độ, bằng chứng Văn bản còn rõ ràng ra đó.[ * ]. Thì nay 1978 Thầy Thích Minh Châu góp phần đưa đến cái chết của Thầy Thiện Minh, đó là “chuyện thường ngày ở huyện” nhà mà thôi. Điều cần nên biết thêm là mọi việc diễn ra tại chùa Già lam có liên quan đến Phật giáo hay của Thân hữu Già Lam đều phải thông qua “kiểm soát” của Thái Thượng Hoàng Trí Quang cả. Trí Quang, một con người lặng lẽ nhưng không phải là không nói, bởi sau Thầy Trí Thủ mất (1988) thì còn có Thích Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát, Nhất Hạnh, vốn là học trò cũ đã thay Thầy mình nói hết cả rồi.
33. Ông Lê Xuân Thuấn (người cán bộ cộng sản cảnh tỉnh) nói về chết của Hòa thượng Thích Thiện Minh.
“Thượng Tọa đã bị tra tấn cho đến chết ngay ở Sàigòn, tại Trại X4 (ở đường Nguyễn Trãi, SG) là trại thẩm vấn (hiểu là tra tấn) và tạm giam trước khi phân phối qua các nhà tù hay trại tập trung. Cộng sản đã chở xác Thượng Tọa ra Hàm Tân để đánh lạc hướng biểu tình của Phật tử ở Sàigòn đang sôi động sau những ngày Thượng Tọa bị bắt”. (câu chuyện Thầy Thiện Minh đd).
4. Giáo gian – đặc tình cấu kết với cộng sản đánh phá GHPGVNTN trong cách nhìn tham chiếu.
Những kẻ “dấy máu ăn phần” trong cái chết của sư Thích Thiện Minh đó là: Mai Chí Thọ, Bộ trưởng Bộ nội vụ; Hoàng Văn Giàu; Công an Lê Thanh Vân; Công an chấp pháp tên Đính và đặc biệt là Thích Minh Nghị, chùa Long Vĩnh, Sài gòn.
41. Vai trò Mai Chí Thọ, Bộ trưởng Bộ nội vụ.
Mai Chí Thọ, người gây nhiều oan trái với GHPGVNTN trong suốt mùa pháp nạn. Câu chuyện Mai Chí Thọ với GHPGVNTN sẽ nói vào một dịp khác.
42. Vai trò Hoàng văn Giàu.
Trong “chiếc áo” Trưởng ban chấp hành Đoàn sinh viên Phật tử Sài gòn 1967 (Quán Như, Mối tình đoàn hữu hơn ba mươi năm) [ * ], Hoàng Văn Giàu (còn có tên nặc danh Hoàng Nguyên Nhuận, Giới Tử, v.v... khi viết lách) “lặn sâu” vào tổ chức Thanh niên Phật tử Sài gòn, trước theo phò Hòa thượng Thích Trí Quang, sau do theo chiến lược mới, được “trên giao” nhiệm vụ mới nên chạy sang ôm chân Hòa thượng Thích Thiện Minh, (Đỗ Xuân Hàng), Cố vấn Ban chỉ đạo, Viện Hoá Đạo (1977). Nằm trong nhóm đặt tình phản gián cao cấp của cộng sản, Theo Quán Như (đd), Hoàng văn Giàu có nhiều tên, hiệu: Hoạt động trong Gia Đình Phật tử Việt nam thì có tên là Anh Giàu; ở báo Lập Trường thì có tên là Hoàng Nguyễn Tùy Anh, Chung Hoàng, Ngô Chu Hà; ở báo Vấn Đề và Hải Triều Âm Phật Giáo thì có tên là Tùy Anh; trong những bài đánh phá GHPGVNTN có tên là Huỳnh Công Hòe; Hoàng Nguyên Nhuận. Ở lò Giáo Điểm thì có tên là Giới Tử. Do đó Hoàng Nguyên Nhuận có cùng “nhóm máu” với Nhóm Phật Giáo vì dân tộc… Xô Viết, Nhóm Tăng Ni Hải ngoại của Thích Nguyên Siêu – Bùi Ngọc Đường điều nầy đã quá rõ rồi.
Đồng hội đồng thuyền” với Hoàng văn Giàu còn có: Nguyễn Long, Đoàn Viết Hoạt, Quán Như (bộ ba nầy do Thích Minh Châu biệt phái từ Bộ Giáo Dục (thời Thiệu Kỳ) sang làm việc cho Viện Đại học Vạn Hạnh. Vĩnh Tùng, Vĩnh Kha, Huỳnh Ngọc Ghênh, Nguyễn Thế Côn, Trần Xuân Kiêm, … Sau biến động miền trung 1967 cơ sở cộng sản nằm vùng tại Huế của họ bị đánh tan tát, bọn nầy chạy bán mạng vào Sài gòn. Bản doanh vun thân của nhóm nầy là: Chùa Pháp Hội (chợ Bàn cờ), Trung tâm Quảng Đức, trụ sở Tổng vụ Thanh niên (hiện nay GHPG quốc doanh chiếm đoạt làm VP2), cư xá Viện Đại học Vạn Hạnh. Quán Như, mối tình đoàn hữu hơn 30 năm, Ông Như đã ca Hoàng Nguyên Nhuận lên mây xanh. Thế nhưng bài ca “mẹ hát con vỗ tay” kia quá dở khiến người đọc thấy rõ bộ mặt đặc tình tôn giáo Hoàng Nguyên Nhuận. Tự choàng cho mình “chiếc áo Thanh niên Phật tử”, thế nhưng Nhuận thuộc loại xấc láo, cao ngạo với lãnh đạo GHPGVNTN, điều nầy càng lộ rõ qua bài: Hoàng Nguyên Nhuận, Hạnh nguyện của một nhà sư [ * ]. Theo đó cho thấy Hoàng Nguyên Nhuận vốn từ lò Giao Điểm với bút hiệu Giới Tử. Đọc Giao Điểm, Chuyển Luân, Đông Dương Thời báo rồi quay sang đọc Hoàng Nguyên Nhuận thì người đọc sẽ dễ dàng để thấy Nhuận cũng lập lại chiêu thức y chang đặc tình Tôn giáo vận cộng sản khi đánh phá GHPGVNTN.
Đọc Hoàng Nguyên Nhuận, Hạnh nguyện của một nhà sư để thấy cái cao ngạo của Nhuận đến độ nào: “Xa cách sơn môn tổ đình, xa cách những tôn đức trưởng thượng, số Tăng Ni này hành xử như gà bươi bếp, tranh nhau lên chức như một đám kiêu binh ô hợp. Phật tử hải ngoại mấy ai khỏi thống tâm khi nghe đến chuyện Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn ở Melbourne ra thông bạch, chuyện ĐĐ Quảng Ba ở Sydney đã bay qua New Zealand phong cho một ĐĐ trú trì bên đó lên TT, chuyện HT Thượng Thủ Tâm Châu, bỏ áo nâu áo lam đắp y Tiểu Thừa, chuyện Tỳ kheo Tiểu Thừa Hộ Giác nhảy lên làm HT là một chức tước của Đại Thừa quy định trong Kinh Phạm Võng về Bồ Tát giới, cũng như Tỳ kheo Hộ Giác đã trịnh trọng ban đạo từ về Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm là vị Bồ Tát mà Tiểu Thừa không hề biết đến”.
“Trước khi Thiền sư Nhất Hạnh về, đám tàn quân “Thống Nhất” đã được Võ văn Ái kích động tột độ. Và không chỉ một mình Võ văn Ái mà thôi. Trước đó, một trong những thành phần kỵ chuyền về của Nhất Hạnh đã phong tặng cho HT Quảng Độ tước hiệu Đạo Pháp Trung Thần, không biết có phải với dụng ý mong HT tự thiêu? Chưa kể đám CCCB (Chống Cộng chết bỏ), CCCĐ ba mươi năm nay ra rả đòi bóng ma cộng sản phải giải thể tức khắc”.
“Ba mươi năm nay những tẩu tướng hàng thần chạy lọt ra ngoại quốc đã ê tay rã họng ra tuyên ngôn tuyên cáo đòi đủ thứ và đã được gì? Không lý giờ đây Nhất Hạnh lại phải hợp ca với Phở Việt Tân, Nguyễn hữu Chánh, Nguyễn Khánh, Lê Minh Đảo, Nguyễn xuân Vinh, Nguyễn hữu Luyện, Võ văn Ái bài ca con cá sống vì nước, tôi đây sống nhờ tranh đấu nhân quyền và đòi cộng sản giải thể tức khắc? Và tức khắc mấy chục năm rồi?”
Đọc Giao Điểm:
Đọc các bài viết của Giới Tử (tức Hoàng Văn Giàu), Sư tử trùng tại sao?[ * ]; Giới Tử, Giáo Hội và Giáo Hội; Giới Tử, thượng thủ pháp sư bội chủ để thấy tính xấc lao, ngạo mạn đến độ nào của một Hoàng Nguyên Nhuận (bút hiệu của Giới Tử), người được Quán Như, mối tình đoàn hữu hơn 30 năm ca tụng là hoạt động lâu năm trong Đoàn thanh niên Phật tử Sài gòn, từng kề bên hàng lãnh đạo GHPGVNTN hay Nhuận chạy gạo, kiếm cơn, bằng ngòi bút ca tụng cộng sản; tiếp tay với tội ác, nhắm mắt trước bao đau thương của dân tộc mình. Tổng quan từ danh mục Hoàng Văn Giàu cho thấy, ngòi bút của Nhuận chỉ là loại “bút máu” theo như điều mà Vũ Hạnh, bút máu đã từng nói vậy.
Cho dù núp dưới chiếc áo nào đi nữa thì chân tướng Hoàng Nguyên Nhuận, Giới Tử cũng đã được Nguyễn Sĩ Tiến, Nghè Trần Chung Ngọc: một tâm địa xỏ lá, một kiến thức sơ sài về Nhân quyền (2001); và Nguyễn Sĩ Tiến, Theo lệnh ai Tổng Đàn, Giới Tử, Hồng Quang từ lò Giao Điểm... ba mặt một lời đánh phá Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (2003) cũng như Tâm Thông, Lê Minh Tuấn, Vạch trần mặt thật của nhóm Giao Điểm trước ánh sáng sự thật từ lâu rồi.
Cho nên không còn lạ gì khi trước Hoàng Nguyên Nhuận ai điếu Thích Mãn Giác theo điệu hò: đưa con sáo qua sông rồi đến Chuyến về Việt Nam của Nhất Hạnh 2005, Hoàng Nguyên Nhuận lại “sáu câu vọng cổ” mà ca Nhất Hạnh theo bài Hạnh nguyện của một nhà sư; rồi tiếp đó Nhuận cũng không quên đánh phèng la kêu gọi nhóm người: trước kia ủng hộ Hoà thượng Thích Mãn Giác thì nay hãy ủng hộ Nhất Hạnh. Trong khi đó Hạnh-Phượng hoạt động đặc tình Tôn giáo vận cộng sản như thế nào, điều nầy Quách Thị Tam Thê, Nhất Hạnh một dòng sông đã chết đã nói [ * ] (cũng như Quách Thị Hương Giang, Nhất Hạnh âm mưu đảo chánh GHPGVNTN không thành [ * ] cũng đã nói rồi. Mới đây ngày 20-12-2007 Đại tá Lê Công Hoàng, Phó cục trưởng, Cục Hải quan thành phố ký công văn “về việc hỗ trợ ông Bùi Hồng Quang được mang “khỏang 420 quyển tạp chí “Giao Điểm số 65 để xuất cảnh ra nước ngoài”. Với chừng ấy chứng cứ để biết nhóm Giao Điểm là ai? Từ đó cũng sẽ biết luôn Tiến sĩ Thích Nhật Từ (cán bộ trí vận) là ai, số đảng tịch Nhật Từ còn đang giải mả, ai biết xin báo khắp mọi người cùng biết thì thật là phúc đẳng hà sa còn hơn xây chín bậc phù đồ nữa đó.
Từ đó dòng chãy đặc tình Tôn giáo vận cộng sản đã lộ ra những Nhất Hạnh + Thích Mãn Giác + Hoàng Nguyên Nhuận (Giới Tử); Trần Chung Ngọc, Thích Nhật Từ. Hay có kẻ đánh đồng GHPGVNTN với cộng sản rồi đánh phá như kiểu Tú Gàn, Chu Sa, Tâm Đạt, Bạch Linh, Kim Nguyên, v.v … của bọn Cần Lao phục thù thì đó là loại văn nô múa bút … kiếm cơm, chạy gạo thật đáng thương sót vô bờ.
Một mặt Hoàng Nguyên Nhuận ca ngợi Thầy Thích Mãn Giác, là ông tổ thân cộng qua vụ tổ chức “mừng lễ chiến thắng 15-05-75” và “mừng sinh nhật Hồ Chí Minh 19-05-75”, rồi đến 2007 con bài Thích Mãn Giác trong vai trò Tổng Giáo Hội sắp được Đảng đưa lên sân khấu “chào hàng” trong ngoài nước theo chiến lược xoá sổ GHPGVNTN bổng đâu Thích Mãn Giác lăn đùng ra chết tốc hành không kịp trăn trối! (Thích Thông Kinh – Thích Đồng Điển, đặc tình Xã nghĩa cũng đang hấp hối, nay mai Xa nghĩa sẽ có Cáo phó đó các bạn ạ) Sau đó Hoàng Nguyên Nhuận trở cờ kêu gọi mọi người quay sang ủng hộ “gánh xiếc” làng Mai về Việt Nam 2007 của Nhất Hạnh. Mà con người thật của Nhất Hạnh là gì? Điều nầy không còn xa lạ nữa. Cứ hể nơi mô mà có đoàn hát bội: “võng anh đi trước, võng nàng kề bên” là đích thị giáo chủ Mai thôn Hắn Ta Đấy. Hai lần về Việt Nam 2005 rồi 2007 Tăng thân mở rộng đâu thì chưa thấy mà ngay cả “căn cứ địa cuối cùng của làng Mai tại Huế cũng đã mất” (Quách thị Song Phu, Hiện tượng Nhất Hạnh). Đến nay, trong lòng Tăng ni Việt nam, đoàn múa rối Làng Mai chỉ còn là xác chết mượn hồn biết đi theo vỡ tuồng “hồn Trương ba, da hàng thịt” mà thôi.
Hoàng Nguyên Nhuận nói: “PG nhờ dân tộc mà có cơ hội thi hành công quả, dân tộc nhờ có PG mà thăng tiến, không đọa lạc. Chính là vì vậy mà có thể nói phục vụ dân tộc là phục vụ PG, và phục vụ PG là phục vụ dân tộc” (Hoàng Nguyên Nhuận, Ngày kỵ Thầy) [ * ]. Úi chà! Hơi hám câu nói trên quả là Y Chag giọng điệu của Nhóm Phật giáo Vì dân tộc ... Xô Viết quá hè. Xin hỏi Phật giáo vì dân tộc mà dân tộc nào vậy? Dân tộc cũng có “năm ba bảy đường” như Nàng Kiều nói đó; hay Phật giáo Vì dân tộc Mác – Lê- Hồ [ * ], nếu thế thì sao ông Nhuận không quịt tẹt mẹ nó ra quần cho mọi người biết mặt luôn đi. Làm vậy mới ngon, thiên hạ mới phục theo cái kiểu “dám làm dám chịu” chứ cứ thụt ló, ló thụt như phường buôn hương bán phấn chốn “Giấc mộng lầu Hồng” như rứa thì kẻo thiên hạ lầm cái đám “đánh phá Nhà thờ cầm cờ Phật giáo” như bao năm qua mà tụi nghiệp quá quá hè!
43. Vai trò Thích Minh Nghị, chùa Long Vĩnh, Sài gòn.
Thích Minh Nghị gốc chùa Long Vĩnh, Sài gòn, là cộng sản nằm vùng trong Viện Hóa Đạo. Do luồng lách vào làm đệ tử “ngang hông” Thầy Thiện Minh. 1978 giữ chức vụ Phụ tá Thư ký (Thích Minh Kiến phó Tổng thư ký VHĐ) kiêm Chánh văn phòng Viện Hóa Đạo. Quá trình công tác tốt, đến 30-04-75 đeo quân hàm cấp Thượng tá, có mang colt trong người, việc nầy nhiều người rõ biết. Minh Nghị thường với Thích Pháp Châu là cặp bài trung trong công tác kinh tài hải ngoại dưới quyền điều hợp của Thích Đồng Điển (Thích Thông Kinh,) chùa Đông Hưng, Sài gòn. Nhóm kinh tài – Trí vận nầy: Thích Thông Kinh, Pháp Châu, Minh Nghị, Nhật Từ, Bùi Hồng Quang, họ đi về Hoa Kỳ - Việt nam như đi siêu thị bởi khi qua cửa hải quan đều có “bùa hộ mệnh” đi kèm (xem giấy công tác của Bùi Hồng Quang, phụ lục cuối bài) . Do tánh khi hung bạo, Minh Nghị đã đánh chết một chú tiểu trong chùa nên bị thất sủng.
5. Từ vụ án Thích Thiện Minh (1978) đến những biến động phân hóa GHPGVNTN hải ngoại ngày nay (2008) đến “những con bạch tuộc săn mồi dấu mặt”.
Tập san Chuyển Luân, Hoàng Nguyên Nhuận tự ví đời mình gói gọn trong “ba giải”: Đối với tư tưởng ông kêu gọi giải hoặc; đối với lịch sử ông theo hướng giải thực; và đối với tôn giáo ông biểu tỏ giải nghiệp (Hoàng Nguyên Nhuận, Phồn hoa kinh, đd)
Từ vụ án Thích Thiện Minh (1978) đến “Phật giáo thời Cộng sản và những liên hệ gây động loạn và mâu thuẫn” (xem http://www.queme.net/vie) [ * ] đến những biến động GHPGVNTN hải ngoại hôm nay trong cách nhìn tham chiếu để xem Hoàng Nguyên Nhuận (Hoàng Văn Giàu, điệp viên tôn giáo dưới quyền Tướng tình báo cộng sản Ba Quốc, bí danh của Thiếu tướng tình báo Đặng Trần Thức nằm vùng ở Saigon trước 1975) [ * ] trong quan hệ với Sư Thích Mãn Giác, với Châu Văn Thọ (Chủ nhiệm kiêm chủ bút Báo Phật giáo Việt nam); với Nhất Hạnh, Thích Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát, Bùi Ngọc Đường, Trần Quang Thuận cộng hợp điều phối cùng Bát đại Huề thượng (nhóm Về Nguồn); với Bùi Hồng Quang, Trần Chung Ngọc, Thích Nhật Từ (nhóm Giao Điểm); với Thích Thông Kinh, Thích Hạnh Đạo (nhóm đặc tình), họ đã và đang giải hoặc, giải thực và giải nghiệp kiểu nào đây?
Chùa Phật giáo Việt nam, Los Angeles, California, Hoa Kỳ của Thầy Thích Mãn Giác (1922-2006), rồi Thích Nguyên Hạnh, rồi Thích Nguyên Đạt, nói đây là Bản doanh, là Tổng hành dinh giải hoặc của nhóm Hoàng Nguyên Nhuận. Thế nhưng, chùa Phật giáo Việt nam, lúc Thích Mãn Giác chưa về châu “tổ Mác” thì những năm 2003, nơi đây thả dàn cho Châu Văn Thọ cùng với lão Tướng Đỗ Mậu và bọn Hồng Quang, Hồng Phấn, Lê Hậu (tức Thích Nguyên Hạnh), Bùi Ngọc Đường, Trần Quang Thuận, cả đồng bọn cùng đối ẩm những chiêu “đâm sau lưng” chiến sĩ người Việt tỵ nạn cộng sản. Lúc bấy giờ Giới Tử, Cơn bảo trong tách trà [ * ] cũng “đánh hôi” ăn bả, to mồm bênh vực cho Thích Mãn Giác, con ngáo ộp cũa XHCN. Rồi năm 1989, nhóm Giao Điểm (theo tôn chỉ: “đánh phá nhà thờ cầm cờ Phật giáo”) đả kích Luật sư Nguyễn Văn Chức theo kiểu “chó vua Thuấn sủa vua Nghiêu” khi Ông Chức “giải mã’ Thích Trí Quang qua bài Nguyễn Văn Chức, Thích Trí Quang và tôi [ * ]. Đến khi nhà nước Xã nghĩa sắp sửa “ra trình làng” vào năm 2007 qua ván bài “Tổng Giáo Hội” Phật giáo Việt nam thì bổng hoạnh tai chi hoạnh tử, Huề thượng thi sĩ Huyền Không bổng “đứt dây chuông” mà về chầu “Tiên – Sư – Cha – Bác”, khiến cho ông Nhuận hụt hẩng “cuộc chơi” nên bèn phải “bóp bụng” đổi tông mà múa bút hô hào người người: “trước kia ủng hộ Thầy Mãn Giác thì nay hãy quay hướng con tàu sang ủng hộ Nhất Hạnh về Việt nam 2007. Quái chiêu chưa? Từ Chùa Phật giáo Việt nam , Huê Kỳ mà lại LINK sang tận làng Mai, Pháp quốc, cái “cáp ngầm liên lục địa” kia được nối kết từ hồi nào rồi vậy ta? Trong khi Hoàng Nguyên Nhuận nói:“PG nhờ dân tộc mà có cơ hội thi hành công quả”. Nói thế mà nghe được ư?
Ở đây cũng nên nói tới việc trở cờ của Thích Mãn Giác, một tu sĩ kiêm thi sĩ hiền lành nhưng háo danh và mê đắm phụ nữ, từng có vợ Nhật thời du học Nhật trước 75. Ai cũng biết Thích Mãn Giác tranh chấp và thù ghét Thích Minh Châu thời Đại học Vạn Hạnh. Sau này vượt biển sang Mỹ nối gót Thầy Thiên Ân làm chủ chùa Việt Nam vùng Los Angeles, California. Cộng sản cử người tới bắn tiếng là sẽ giao trả Đại học Vạn Hạnh lại cho Phật giáo và sẽ mời Mãn Giác về làm Viện trưởng. Cơ hội cho Mãn Giác rửa thù Minh Châu. Thế là Mãn Giác híp mắt « giả từ chống Cộng », ngồi chờ Cộng sản rước về làm Viện trưởng. « Trả Đại học Vạn Hạnh » lại cho Phật giáo là miếng mỡ treo trước miệng mèo Thích Mãn Giác, và nay là trước miệng mèo Lê Mạnh Thát và Thích Tuệ Sỹ ! Than ôi, món mồi danh lợi không chỉ thu hút người đời thường mà ngay cả giới Hoà thượng, Thượng toạ như Thích Mãn Giác, Lê Mạnh Thát, Thích Tuệ Sỹ cũng đua đòi, giành giựt.
Trong nhà Phật chỉ có vun bồi công quả hay tu tạo phước điền hay tu tập thiện duyên, phước duyên, thắng duyên chứ kho tàng Ba tạng thánh giáo nhà Phật không hề có cái cụm từ “nửa nạc nửa mỡ” thật vô duyên như cụm từ thi hành công quả cả. Công quả mắc gì lại thi hành? Thì cứ tẹt ra quần mẹ nó là thi hành “chỉ thị trên giao” cho nó oai hay cứ “lời chào cộng sản” như [2 bức] Thư Hồ Chí Minh gởi Stalin [ * ] cho nó thuần hóa luôn thể. Còn như ông Nhuận nói: “dân tộc nhờ có PG mà thăng tiến, không đọa lạc”. Đây lại là cái kiểu ngoại lai, vong bản mất gốc nữa rùi. Khi Phật giáo chưa gieo hạt trên vùng đất Giao Chỉ - Giao Châu thì dân tộc nầy cũng đã thăng tiến và “ăn nên - làm ra” những chiến công lẫy lừng “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” mà không bị đồng hóa bởi Hán tộc phương Bắc, Tuy có chậm tiến, thăng tiến chứ chưa bao giờ dân tộc Việt do vì không có Phật giáo mà trở nên đọa lạc như ông Nhuận nói cả. Có đọa lạc chăng là kể từ khi chủ nghĩa Mác- Lê do tên tội đồ Hồ Chí Minh áp đặt cho dân tộc Việt nầy. Từ đó, xã hội phân hóa, lòng người ly tán, con trai Việt phải nô lệ vạn dậm cõi ngoài theo cái gọi là “xuất khẩu lao động”; con gái Việt bị đem trưng bày ở chợ ngưởi quốc tế cho cái gọi là xuất khẩu hôn nhân; Rồi cột mốc đất liền biên giới Việt – Trung “biết đi”, lãnh hải trên biển Việt - Trung “biết trôi”, lần mất về tay Tàu cộng. Nhuận ơi! Chưa nghe một lần ông hỏi: chừng nào bầu trời không phận Việt nam xuất khẩu cho Tàu nữa đây. Cái đọa lạc mất nước như thế 80 triệu đồng bào ai cũng thấy, cũng biết cũng nghe mà sao nhóm Giáo Điểm - Chuyển Luân, Đông Dương thời báo của ông không nói ? Hay ông muốn nói phục vụ dân tộc [XHCN] là phục vụ PG, và phục vụ PG là phục vụ dân tộc [XHCN]. Nếu thế thì ông cũng nên nói rõ luôn cho người người cùng biết, cho cả Sư Thích Tín Nghĩa, Hoa kỳ cùng biết là: Cái chết của Thầy Thiện Minh là do cộng sản giết; mà do cộng sản giết là gây ra cái chết của Thầy Thiện Minh. Quá đúng 100% luôn, cho đi thẳng vào Lăng Ba Đình bưng ... bô Bắc bộ phủ mà khỏi thông qua tuyển chọn, hay lựa lọc gì ráo. “Cung kính bất như phụng mệnh”, là Truyền thống tổ đạo 2000 năm đó. Chỉ cần Sư Thích Tín Nghĩa cũng như Ông Nguyên Nhuận Hoàng Văn Giàu mà cùng cất cao tiếng nói trên trang nhà www.phatgiaovietnam.net : Thầy Thiện Minh Chết Trong Nhà Tù Cộng Sản. Thầy Thiện Minh Chết Trong Nhà Tù Cộng Sản. Thầy Thiện Minh Chết Trong Nhà Tù Cộng Sản. Chỉ chừng ấy thôi thì mỗi năm Sư Tín Nghĩa khỏi cần phải “Ngày kỵ Thầy” hay “Ngày giỗ Thầy” hay Ông Nhuận củng khỏi phải ca bài “Hạnh nguyện của một nhà sư” rùm beng để hòng lừa dối thiên hạ nữa, làm thế thì tội nọ bằng non, chín sông khôn rữa sạch sạch. Mà thiên hạ thì không thể bị lừa dối mãi được đâu. Thích Tánh Hải, Tôn giáo hoà hợp XHCNVN, bài học tang thương máu - lệ suốt 70 năm (1930-2007) mà nay vẫn chưa phai [ * ] là công án cho chúng ta tư duy trên đường giải trừ pháp nạn XHCN. Cám ơn Thầy Thích Tánh Hải thật là nhiều. Mô Phật.
Rồi nay lại có con nhạn lạt đàn Sư Thích Giác Nhôm [Giác Nhiên], giáo chủ đạo chàng hảng (chẳng Nam tông, cũng không Bắc tông mà lại nằm giữa “ngã ba Bà Điểm, Hóc Môn”), chẳng lo giác ngộ, giác chiếu, giác giường, giác chổng mà lại đi giác tào lao, bá láp đứng đầu danh sách Cộng đồng Giáo hội Phật giáo Việt nam hải ngoại trông dáng vẻ Thích Giác Nhôm nầy, nó hợm hỉnh khác nào cái Mồng gà trên cổ vịt vậy hỉ. Thượng thủ Thích Tâm Châu bởi sa chân theo đám Về Nguồn Xã nghĩa nên đã cháy rụi sự nghiệp xế chiều để nhập bọn cùng với đám “đâm trâu thất nghiệp”: Thân hữu già Lam. Nay Sư Giác Nhôm [Thích Giác Nhiên] lại đi “rao bán thuốc dạo Sơn Đông” ra Tâm Thư phóng xạ ô nhiểm gì nữa đây.
6. Phản kháng của GHPGVNTN chung quanh cái chết của Thầy Thích Thiện Minh.
Chung quanh cái chết của Thầy Thích Thiện Minh, dù áp lực bạo quyền luôn răn đe những ai lên tiếng đòi công lý cho vụ án, vẫn có những tiếng nói phản kháng vang lên, mở đường trước nhất và mạnh mẽ nhất là Thầy Thích Đôn Hậu; Thầy Thích Đức Nhuận, Thầy Thích Huyền Quang; Thầy Thích Quảng Độ. ..
Thầy Thích Đôn Hậu: - “Thiện Minh chết không phải vì xuất huyết não, mà vì BÀN TAY TỘI ÁC CHÍNH TRONG CƠ QUAN TẠO RA!”; và -“Hãy dưa cái chết của Thượng tọa Thiện Minh ra ánh sáng, nghĩa là phải đưa cái người giết Thiện Minh ra ánh sáng. Không nói lôi thôi gì hết. Có người giết!” (xem: Phụ lục, phần 2. Thích Đôn Hậu, Lời tuyên Bố).
Thầy Thích Huyền Quang (Quyền Viện Trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN), Tuyên Cáo Ngày 20 .11.1993 có đoạn: “Thực hiện Chúc Thư do Ngài [Thích Đôn Hậu] để lại, Văn Phòng Lưu Vong Viện Hoá Đạo GHPGVNTN đã viết "Đơn Xin Cứu Xét Nhiều Việc", (lược) và minh bạch hoá việc Công an TP Hồ Chí Minh tra khảo đến chết Hoà Thượng Thích Thiện Minh năm 1978.[*].
Thầy Thích Quảng Độ, 4 điểm Thống nhất Phật giáo. “Thứ tư, làm sáng tỏ cái chết của Cố Hòa thượng Thích Thiện Minh năm 1978” [ * ]
7. Truyền thông Phật giáo quốc doanh xuyên tạc về cái chết của Hòa thượng Thích Thiện Minh.
Cái chết của Thầy Thích Thiện Minh đã bị nhà nước bưng bít từ hàng chục năm qua. Một số tờ báo lao nô cộng sản như Báo Giác Ngộ, Thành hội PG TP HCM; Từ trang nhà www.quangduc.com của Thích Nguyên Tạng, Thích Tâm Phương, Thích Thiện Hiền, Thích Giác Tín của Nhóm Thân Hữu Già Lam bên Úc; đến báo Phật giáo Việt nam của Thầy Thích Mãn Giác, Hoa Kỳ, đến Báo Giao Điểm, đến Thích Đồng Bổn, Danh Tăng Việt nam v.v… đều cùng một “bài bản” đưa tiểu sử sai lệch của Thầy khi nói rằng Thầy Thích Thiện Minh do bị xuất huyết não mà chết. Trong khi sự thật thì Thầy Thích Thiện Minh đã bị tra tấn đến chết trong nhà tù cộng sản.
Thích Đồng Bổn (chủ biên), Danh Tăng Việt nam: “Vì tuổi già sức yếu và bệnh tật, nên Ngài đã thu thần viên tịch tại nơi an trí”. [ * ]. Quái chưa! Nơi an trí là nhà tù, là địa ngục cộng sản. Thế mà đem cụm từ an trí ghép với cụm từ thu thần viên tịch thì quả là dành hết “bốn bồ dốt nát” về mình mà chẳng chừa cho thiên hạ chia phần.
Sư Ông Nhất Hạnh nói sai lệch về cái chết của Thầy Thích Thiện Minh. www.tudanhaingoai.com , Trang nhà của Sư Thích Tín Nghĩa, buôn sóc nầy cũng theo kiểu “bút máu” mà tiếp tay, mớm mồm giúp Nhất Hạnh bố láo khi nói: “Thầy Thiện Minh phải xé áo làm dây để tự tử” (một đại Hoà thượng lãnh đạo Phật giáo như cố Hoà thượng Thích Thiện Minh làm sao có chuyện “tự tử” theo lối cường điệu của Tín Nghĩa mới còn là chú tiểu ngày cố Hoà thượng Thiện Minh lãnh đạo cuộc đấu tranh năm 63 ?!).[ * ] Ai mà còn lạ gì với “Nhất Hạnh, Bố láo như một dòng sông Hạnh – Phượng Mai thôn.[ * ]. Cũng như “Đảng viên cộng sản, HT Trí Quang tự truyện nói láo không ngượng miệng” [ * ]. Thật quả là Nhất Hạnh - Tín Nghĩa “cha truyền con nối” mà.
8. Nhìn lại chân dung toàn cảnh vụ án Thầy Thích Thiện Minh.
Cuộc đối - đáp giữa công an nhà tù Hàm Tân với Thượng tọa Thích Trí Thủ, GHPGVNTN:
Công an … Nhưng cũng xin ông nhớ cho là, dù đã chết thì ông Đỗ Xuân Hàng vẫn là một tù nhân. Chưa có lệnh nào xóa án cho ông ấy cả.
Hòa Thượng Trí Thủ hơi giận:
- Thưa ông, cũng chưa có tòa án nào kết tội ông Đỗ Xuân Hàng cả.
Tên trung tá công an bướng:
- Nhưng ông ấy vẫn bị liệt vào hạng bị tình nghi về chính trị.
Hòa Thượng Trí Thủ gắt:
- Vậy, thưa ông, tình nghi và tù nhân giống nhau?
Tên trung tá công an đứng dậy:
- Vâng, thưa ông, giống nhau.
(chuyện Thầy Thích Thiện Minh, đd)
Trích đoạn cuộc đối đáp trên cho thấy: Nhìn từ phía nhà nước thì Thầy Thiện Minh (Đỗ Xuân Hàng) “bị liệt vào hạng bị tình nghi về chính trị”. Bị tình nghi về chính trị mà trở thành tù nhân! Thôi đúng rồi! Cho nên khi ông nhà nước chỉ tình nghi cả dân miền Nam là quân ngụy có nghĩa là “bị tình nghi về chính trị” cho nên từ Quân, Dân, Cán, Chính miền Nam phải đi tù cải tạo ròng rã mút chỉ cà tha, may mà Dân miền Nam không bị giết hết như hoàn cảnh Thầy Thiện Minh, quả là tụi Vẹm “độ lượng khoan hồng” quá rồi còn gì nữa hỉ.
Dưới vòm trời XHCNVN, “dù đã chết thì ông Đỗ Xuân Hàng vẫn là một tù nhân” mặc dù “chưa có tòa án nào kết tội ông Đỗ Xuân Hàng cả” mà chỉ có ông công an trại tù Hàm Tân, Phan Thiết, người đẻ ra luật, cũng là người kết án mà cũng là người thi hành án, cả 3 quyền: Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp đều nằm trong tay Công an cả, công an trị cả, đây là hiện tượng chỉ có ở Buông - Sóc XHCN mà thôi. Chung quanh vụ án (dù chưa bị tòa kết án cũng đã có mang án rồi) Thích Thiện Minh cho thấy không có nhân chứng, vật chứng, không bị truy tố ra tòa, cũng không có Luật sư biện hộ; nội hàm vụ việc không có gì nguy hiểm nghiêm trọng ngoài việc Thầy Thiện Minh chỉ đơn thuần bày tỏ quan điểm chính kiến. Bày tỏ quan điểm chính kiến mà cũng có tội hay sao? và đưa đến cái chết hay sao? XHCNVN là kẻ làm ra luật mà lại sống ngoài vòng pháp luật và sống trên pháp luật, cũng chính từ đó họ đã gây ra cái chết oan khuất, thương tâm với Thầy Thiện Minh, GHPGVNTN (1978). Ngoài ra còn phải kể đến Vụ án Nguyễn Duy Trinh khai tử Phật giáo ở chiến khu 5(1951) [ * ]; Vụ án 12 vị Tăng ni Thiền viện Dược Sư tỉnh cần thơ (1975); Vụ án cơ sở Từ thiện – xã hội GHPGVNTN Quách Thị Trang, vu vạ đời tư các nhà lãnh đạo Viện Hóa Đạo (1977); Vụ án cướp Giáo sản GHPGVNTN (1975 -1981); Vụ án 25 năm tù với Thượng tọa Thích Thiện Minh (Huỳnh Văn Ba) 1978; Vụ án Thầy Thích Huyền Quang (1982); Vụ án Thầy Thích Quảng Độ (1982); Vụ án chiếm đất Việt nam Quốc Tự bán cho nước ngoài (2008) .
Cũng xin nói thêm, với cả vụ án Linh mục Nguyễn Kim Điền (1988); Vụ án Tu sĩ Võ Văn Bửu (Phật Giáo Hòa Hảo) 2006; cùng những vụ án Cải cách Ruộng đất (1955); Vụ án Cuộc khởi nghĩa Quỳnh Lưu (1956); vụ án Nhân Văn Giai phẩm (1957); Vụ án Xét lại chống đảng (1967); Vụ án đày dân đi kinh tế mới (1976); Vụ án cải tạo tư sản (1977); Vụ án Thuyền nhân Việt nam (1978); Vụ án giết 3,157 dân làng Ba Chúc, Tri Tôn, An Giang (1978); Vụ án Dân oan toàn quốc (1990); Vụ án Nông dân Thái Bình (1991); Vụ án đàn áp sắc tộc Tây Nguyên (2004); Vụ án chống tham nhũng (2005); Vụ án bảo vệ toàn vẹn lảnh thổ Việt nam (2007) … Hơn 30 năm qua (1975-2008) những án oan đưa đến chết chóc, đau thương với GHPGVNTN và Dân tộc, hồ sơ pháp nạn XHCN chất cao như núi, hơn cả tòa nhà chọc trời ở New york nữa.
Tổng quan mà xét thì nhà nước XHCNVN là tội đồ dân tộc và tôn giáo; Là tổ chức khủng bố loài người. Một tổ chức khủng bố như thế thì không đủ tư cách, là bất xứng với tên gọi Phó chủ tịch Ủy ban chống khủng bố Liên Hiệp Quốc; không xứng đáng ngồi ghế Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Nhắc lại quá khứ không phải để nuôi dưỡng hận thù mà là đòi lại sự công bằng cho người bị hại; cũng là nói lên tính nghiêm minh của pháp luật rằng là kẻ chủ mưu gây án thì phải bị đưa ra trước toà án quốc tế để làm sáng tỏ những vụ án oan khuất còn chìm trong tăm tối. “nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác”, cái chết của Thầy Thích Thiện Minh trong ngục tù cộng sản cũng phải được mọi người tư duy như thế. Cho nên, có thẳng thắn giải toả nỗi oan khuất với quá khứ, những oan khiên với dân tộc, thì mới có tư cách nói chuyện xây dựng hiện tại và phát triển tương lại của đất nước. Có giải oan cho người mất thì mới chúc sinh cho người sống và mở đường cho mời gọi (không là tập hợp cũng không là hòa giải) sức mạnh toàn dân theo mô hình “mặt trời mặt trăng cùng sáng, mỗi vẻ có cái chiếu sáng riêng của nó” (mô hình Khương Tăng Hội) để cùng trung hưng dân tộc Việt. Nói theo Hòa thượng Thích Huyền Quang là phải “Sám hối và Chúc sinh toàn quốc” [ * ]
Nhà lãnh tụ Trung Quốc nói: “không sợ Tây xâm chỉ sợ Hán Gian”; Theo góc độ câu nói đó để nhận định về Pháp nạn XHCN ngày nay thì vai trò, sự tác hại của nhóm giáo gian “Bát đại Huề thượng” Xã nghĩa không phải nhỏ và cần phải nhận diện nghiêm túc chân tướng những đối tượng nầy. Bởi vì đầu mối của biến cố pháp nạn GHPGVNTN ngày nay, ngoài nhà nước, nguồn chủ lực Pháp nạn ra thì bên cạnh đó luôn có bàn tay giáo gian cộng hợp mà gây nên tất cả. Liên quan đến cái chết của nhà sư Thích Thiện Minh có bóng dang thấp thoáng của nhà sư Thích Trí Quang, Thích Trí Thủ, Thích Minh Châu, Hoàng Văn Giàu cùng với nhóm “Ban chấp hành Đoàn sinh viên Phật tử Sài gòn”, những người đang “nhởn nhơ” nơi các “trạm trung chuyển” đặc tình hải ngoại mà chùa Việt nam ở Houston, Texas, Hoa Kỳ của Sư Nguyên Hạnh, đồng bọn của Thầy Thích Mãn Giác rồi Thích Nguyên Đạt là một trong những “bãi đáp” kinh tài xã nghĩa. (Câu chuyện chùa Việt nam với Thích Mãn Giác, Châu Văn Thọ, Hoàng Văn Giàu, Thích Nhất Hạnh, sẽ nói vào 1 dịp khác). Chính vì chung quanh vụ án Thích Thiện Minh còn dính liếu đến những tên giáo gian hải ngoại như vừa nói, cho nên từ báo chí Phật giáo thân cộng trong ngoài nước đến nhà nước xã nghĩa, qua ngòi bút giáo gian như Thích Tín Nghĩa, giổ Thầy; Giới Tử, cơn bão trong chén trà; Hoàng Nguyên Nhuận, Phồn hoa kinh; hay kiểu “đánh phá Nhà thờ cầm cờ Phật giáo” của nhóm Giáo Điểm… Đó đều là những loại tung hỏa mù xuyên tạc lịch sử, che lấp sự thật về cái chết của Hòa thượng Thích Thiện Minh khi các báo nầy nói rằng: “Ông Đổ Xuân Hàng (Thích Thiện Minh) do xuất huyết não mà chết”, đó là nói theo chủ đạo của nhà nước xã nghĩa.
Từ “nhận định về những sai lầm tai hại của đảng cộng sản đối với dân tộc và Phật giáo Việt nam [ * ] cho đến một XHCN bệnh hoạn theo kiểu “tình nghi với tù nhân giống nhau”; thì XHCN, Nó chỉ có [thay] đổi mà không thể [cải] sửa được nữa. Đã đến lúc toàn dân: Liên minh Dân tộc, các tôn giáo phải thành lập Ủy Ban Tố Cáo Tội Ác Cộng Sản Với Dân Tộc Và Tôn Gíao, đưa CHXHCNVN ra tòa án Liên Hiệp Quốc để đòi quyền sống cho dân tộc Việt.
Từ Thích Trí Thủ đến Thích Trí Quang đến Hoàng Nguyên Nhuận đến Thích Mãn Giác; Rồi từ Hoàng Nguyên Nhuận liên kết với Nhất Hạnh; từ Nhất Hạnh (đệ tử Thầy Trí Quang) “nối mạng” trở về với Thích Trí Quang với chùm “dây mơ, rễ má” “vòng vo tam quốc” như thế cho thấy Giáo gian với đặc tình cấu kết, đan xen nhau từ trong ngoài nước đánh phá, triệt hạ GHPGVNTN mà từ tháng 08-2007 vừa qua, Bùi Ngọc Đường (Bùi khủng bố), Trần Quang Thuận, Thích Quảng Ba đã cho nã phát pháo đầu tiên trên vòm trời GHPGVNTN. Thế nhưng, qua Giáo Chỉ 09-2007 chúng đã hiện nguyên hình tiếm danh GHPGVNTN theo kiểu “bên vua có chúa”. Cũng từ đó cho thấy mọi biến động phân hóa GHPGVNTN ngày nay đều có mặt nhóm Thân hữu Già lam, Quân sư “quạt mo” Thích Quảng Ba (Úc Châu) cùng tay chân của cặp bài trùng Thích Tuệ Sỹ - Lê Mạnh Thát, hậu duệ của Thầy Thích Trí Thủ dự vào và cao hơn chút nữa đó là bóng dáng của một Phạm [Văn Bông] Thái Sư – Thái thượng Hoàng: Thích Trí Quang, người đã hơn 1 lần thố lộ: “không hề muốn thấy GHPGVNTN với Huyền Quang –Quảng Độ còn tồn tại nữa”.
Chung quanh, bên dưới Trí Quang còn nhiều “tay chân” phò tá cho Phạm Thái Sư, giúp ông thực hiện tham vọng “Hoàng triều cương thổ” trong Phật giáo mà Lê Mạnh Thát (quan võ), Thích Tuệ Sĩ (quan văn) đang ra sức giáo gian phá đạo. Vừa qua, 2004, Tướng tình báo cộng sản Ba Quốc (Đặng Trần Đức) trước khi “về bên nước Mác”, y đã không ngần ngại bạch hóa Hoàng Văn Giàu là tay chân của hắn. Anh Giàu (Hoàng Nguyên nhuận), tên gián điệp cộng sản đã từng ôm chân Thầy Trí Quang, Thầy Thiện Minh mấy mươi năm qua và cái chết của Thầy Thiện Minh,“Anh Giàu” ít nhiều cũng có dự phần.
Cho nên, chỉ khi nào giải mã “trọn gói” Thích Trí Quang là ai thì đám đặc tình xã nghĩa trong ngoài nước sẽ lộ mặt, sinh lộ cho Phật giáo đồ mở ra và pháp nạn XHCN cũng sẽ sang trang. Căn nguyên pháp nạn XHCN ngày nay là ở chỗ đó.
(còn tiếp Phần 2)
Đề Mục Chính
1. Bối cảnh pháp nạn chung quanh cái chết Thầy Thích Thiện Minh
2. Thầy Thích Thiện Minh, Những năm tháng cuối đời.
3. Thầy Trí Quang, Thầy Trí Thủ với cái chết của Thầy Thích Thiện Minh trong cách nhìn tham chiếu.
31. Vai trò Thầy Thích Trí Thủ.
32. Vai trò Thầy Thích Trí Quang.
33. Ông Lê Xuân Thuấn (người cán bộ cộng sản cảnh tỉnh) nói về chết của Hòa thượng Thích Thiện Minh
4. Giáo gian – đặc tình cấu kết với cộng sản đánh phá GHPGVNTN trong cách nhìn tham chiếu.
41. Vai trò Mai Chí Thọ, Bộ trưởng Bộ nội vụ.
42. Vai trò Hoàng văn Giàu.
43. Vai trò Thích Minh Nghị, chùa Long Vĩnh, Sài gòn.
5. Từ vụ án Thích Thiện Minh (1978) đến những biến động phân hóa GHPGVNTN hải ngoại ngày nay (2008) đến “những con bạch tuộc săn mồi dấu mặt”.
6. Phản kháng của GHPGVNTN chung quanh cái chết của Thầy Thích Thiện Minh.
7. Truyền thông Phật giáo quốc doanh xuyên tạc về chết của Hòa thượng Thích Thiện Minh.
8. Nhìn lại chân dung toàn cảnh vụ án Thầy Thích Thiện Minh.
9. phụ lục
Bấm vào đây để đọc tiếp Vụ án Thầy Thích Thiện Minh chết trong ngục tù cộng sản (phần 2)
http://www.tinparis.net/thoisu/2008_08_26_VuAnThayThichThienMinh_2.html
Mạc Thị Hà Tiên. 2008
Nhà sư Thích Thiện Minh (Đỗ Xuân Hàng) chết trong ngục tù cộng sản, 30 năm trôi qua (1978-2008) mà vụ án vẫn còn chìm trong bóng tối. Đến nay hệ quả chung quanh vấn nạn còn ảnh hưởng đến nhiều người; nó chính là luận đề luôn mời gọi nghiên cứu sinh tiến sĩ, học giả tham gia góp phần làm sáng tỏ sự thật lịch sử Việt nam và Phật giáo Việt nam; nó cũng là biến cố cuốn hút với nhiều người theo nhiều cách nhìn khác nhau. Từ lãnh tụ tôn giáo đến Tăng, ni, Phật giáo đồ bởi nhiều lý do mà trên hết chân dung vấn nạn nầy gợi lên gam màu rõ nét về cách hành xử bạo ác của chế độ XHCN với nhà lãnh đạo tôn giáo – Phật giáo; cách “xuống tay” bất nhân vì nó đơn thuần chỉ là một vụ “bị tình nghi về chính trị”. Cho nên, với nhà nước XHCN, vụ án Thích Thiện Minh là một vấn nạn cần phải được che lấp, xóa nhòa; Với các đảng phái chính trị, các đoàn thể dân sự, nói chung là các tổ chức quần chúng đối kháng XHCN thì vụ án Thầy Thích Thiện Minh (1978) cũng như vụ án Linh Mục Nguyễn Kim Điền (1988) là ngọn cờ khơi dậy lòng yêu quê hương dân tộc và tôn giáo trước bảo vũ quốc nạn với pháp nạn Việt nam. Hơn ai hết, với Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất (GHPGVNTN), cái chết của nhà Sư Thích Thiện Minh ngày 18 tháng 10 năm 1978 là vụ án oan khuất, thương tâm cần phải được giải bày để làm rõ tính công minh pháp luật, trả lại sự công minh cho Phật giáo; trên hết phải nói rằng đây là một Đại biến cố với Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất (GHPGVNTN).
Sư Thích Thiện Minh (1922 -1978) Phó Viện trưởng, Viện Hóa Đạo (VHĐ), GHPGVNTN (1971). Quyền viện trưởng Viện Hóa Đạo (1973). Cố vấn Ban chỉ đạo VHĐ (22-01-1977). “Thượng Tọa đã bị tra tấn cho đến chết ngay ở Sàigòn, tại Trại X4 (ở đường Nguyễn Trãi, SG) là trại thẩm vấn (hiểu là tra tấn) và tạm giam trước khi phân phối qua các nhà tù hay trại tập trung. [Sau đó] cộng sản đã chở xác Thượng Tọa [đến khám Chí Hòa, Sài Gòn, nhưng khi xe chở xác Thầy vừa đến cỗng khám Chí Hòa thì “có lệnh trên” phải tức tốc chuyển ngay] ra Hàm Tân [Phan Thiết] để đánh lạc hướng biểu tình của Phật tử ở Sàigòn đang sôi động sau những ngày Thượng Tọa bị bắt. [ * ]
Bối cảnh chính trị miền Nam trước 1975, trong GHPGVNTN xuất hiện nhiều khuôn mặt làm chao đảo chính trường, một trong số đó là Thầy: Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Minh Châu, Thích Trí Thủ, v.v… quí Thầy thường xuất hiện hòa quyện vào nhau, đan xen nhiều mặt, đến nỗi có người nhìn: Thích Trí Quang (phụ trách hành động), Thích Thiện Minh (phụ trách tổ chức - nhà chiến lược), Thích Minh Châu (phụ trách về đường lối), Thích Trí Thủ (phụ trách cơ sở) như là “bộ tứ” gây nên sóng gió với chính trường miền Nam. Thực tế thì GHPGVNTN bấy giờ không phải là một khối. Chính Thầy Thích Tâm Châu đã xé nát GHPGVNTN ra làm hai mảnh mà hệ quả điêu linh không phải là nhỏ và di chứng nó, đến nay chưa dứt. Theo Ông Nguyễn Văn Hiếu, Bộ trưởng Bộ Văn hóa XHCN Việt nam thì có 2 Phật giáo: “Thống nhất với Phật giáo cách mạng chứ thống nhất làm gì với bọn Phật giáo phản động. Như vậy, “Phật giáo phản động” mà Cộng sản kết án thông qua miệng Nguyễn Văn Hiếu, chính là GHPGVNTN Huyền Quang – Quảng Độ, Thầy Thích Thiện Minh thuộc Giáo Hội nầy và là Thánh tử đạo thời pháp nạn XHCN. Hơn 30 năm trôi qua (1978-2008) đến nay, chung quanh vụ án còn nhiều ẩn số mà những kẻ “dấy máu ăn phần” trong vụ án nầy còn đang dấu mặt, họ tiếp tục gây phân hóa GHPGVNTN trong và ngoài nước mà chùa Phật giáo Việt nam, Houston, Tesax, Hoa kỳ của Thầy Thích Nguyên Hạnh, là một trong những “bãi đáp” được đặc tình Thích Thông Kinh bao thầu kinh tài “trọn gói”. Xin hỏi “Bát đại Huề thượng” xã nghĩa: họ là ai? [ * ]
1. Bối cảnh pháp nạn chung quanh cái chết Thầy Thích Thiện Minh
Sau 1975 cộng sản vào thành, lúc XHCN “cờ thắng trong tay” cũng là lúc GHPGVNTN (Phật giáo Ấn Quang, nhóm theo lập trường dân tộc) bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Điều nầy cũng có nghĩa là ngay cái ngày 30-04-75 nhà nước XHCN đã không nhìn nhận sự có mặt của GHPGVNTN rồi. Khơi nguồn pháp nạn XHCN cũng bắt đầu từ đó nỗ ra và lan rộng toàn quốc từ Quảng Trị đến Cà Mau rồi đưa đến cái chết của nhà sư Thích Thiện Minh là một điển hình.
Nhà tù XHCN với GHPGVNTN mở ra mô thức ngục tù mới gọi là “Nhà tù 4 phòng”: 1. “Sống không nhà; 2. Chết không mồ; 3. Đi không đường; 4. Tù không tội; Ngoài ra còn có “nhà tù di động” (lúc nào công an cũng bám theo thành viên GHPGVNTN); Rồi “nhà tù bay” là loại đã áp tải Thượng tọa Thích Không Tánh từ Hà Nội về Sài gòn (2007); là loại nhà nước dự kiến áp tải Ngài Thích Huyền Quang, Tăng thống GHPGVNTN ra Hà Nội để đưa lên ngôi Pháp chủ năm 2007. XHCN cướp giựt toàn bộ giáo sản Giáo Hội nầy từ tỉnh Quảng Trị đến Cà Mau. Các cơ sở Từ thiện (như Cô nhi viện Quách Thị Trang), Cơ sở giáo dục (như Viện Đại học Vạn Hạnh, hệ thống Trung tiểu học Bồ Đề), Cơ sở xã hội (như lớp học Tình thương) v.v… Pháp nạn diễn ra thật kinh hoàng, khủng khiếp. Chỉ trong vòng 22 tháng (từ tháng 05-1975 đến tháng 03-1977), Viện Hóa Đạo đã có đến 85 (tám mươi lăm) Kháng Thư gởi đến nhà nước CHXHCNVN, thế nhưng không có vụ án nào được xét xử cả. Tiếp sau đó, Nhà nước tiến hành Thống nhất Phật giáo theo mô hình đưa chính trị vào tôn giáo, áp lực Phật giáo nằm trong Mặt trận tổ quốc, Quí Thầy Thích Đôn Hậu, Thầy Thích Thiện Minh, Thầy Thích Huyền Quang, Thầy Thích Quảng Độ, phản kháng quyết liệt, biến cố đã đặt GHPGVNTN trước cơn bảo lũ pháp nạn thảm khốc. Tiếp đến,
1975-05. Liên hiệp thanh niên, sinh viên Sàigòn Gia Ðịnh chiếm cứ Văn phòng Tổng vụ Thanh niên (Trung Tâm Quảng Ðức ở số 294 Công Lý Sàigòn) của Thầy Thích Thiện Minh.
1976-07-22 Thủ Tướng Phạm văn Đồng ban hành Quyết định QĐ 310/TT.G theo đó Tu sĩ các tôn giáo tuổi từ 18 đến 25 phải thi hành nghĩa vụ quân sự. Kết quả là hàng ngàn Tăng sĩ trẻ Phật giáo trên khắp đất nước đặc biệt là miền Trung và Nam Việt Nam phải lên đường tòng quân, một số không muốn cởi áo ca sa trở về thế tục đã phải sống trốn tránh ở các địa phương khác trong tình trạng không có giấy tờ tuỳ thân, không nơi cư trú. Thậm chí nhà sư phải lang thang hè phố, sống vô gia cư, hiện trạng bấy giờ đã gợi lên chân dung tôn giáo XHCN thật thảm não.
1977, Thầy Thích Thiện Minh cố vấn Viện Hóa Đạo (VHĐ) ra thông cáo phản đối việc nhà nước buộc Tăng sĩ trẻ đi nghĩa vụ quân sự.
1977-01-21. Đại hội 7, GHPGVNTN, Thầy Thích Thiện Minh giữ chức Cố vấn VHĐ, GHPGVNTN
1977-03-11 Nhà nước chiếm dụng toàn bộ trụ sở (05-1975 chỉ chiếm có 1 phần) Tổng Vụ Thanh niên (đường Công Lý), tống xuất Thầy Thích Thiện Minh, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Thanh niên ra khỏi trụ sở và xóa bỏ quyền cư trú của ngài (xóa tên trong sổ gia đình cũ, không cho lập sổ hộ khẩu mới), Thầy Thích Thiện Minh đã phải lang thang rày đây mai đó, từ chùa viện đến niệm Phật đường. Thế nhưng đến đâu Thầy cũng bị công an xua đuổi bằng cách gây khó khăn với các vị trú trì chủ hộ nơi mà Thầy dừng chân, tạm nghĩ.
1977-04-09. Thông cáo VHĐ/TC/VP
Thầy Thích Thiện Minh phát “Lời kêu gọi 6 điểm bảo vệ Nhân Quyền tại nước CHXHCNVN” gởi đến nhà cầm quyền CSVN đòi hỏi : 1. Thả tù nhân chính trị, tôn giáo và hàng trăm ngàn người khác đang ở trong các trại cải tạo. 2. Thi hành nghiêm chỉnh chính sách tự do tín ngưỡng. 3. Chấm dứt tình trạng tham nhũng của nhân viên chính quyền các cấp. 4. Cho phép những người có khả năng, những người không phải đảng viên của Cộng sản được phép tham gia vào công cuộc xây dựng xứ sở theo khả năng chuyên môn. 5. Yêu cầu cho phép các tu sĩ và tín đồ thuộc các tôn giáo được tiếp tục làm các công tác xã hội mà không phải từ bỏ tôn giáo tín ngưỡng của mình. 6. Phá bỏ mọi bất công, kỳ thị giữa các đảng viên cộng sản và nhân dân. Mọi người đều có quyền công dân.
1977. Thầy Thích Trí Thủ cho biết là “Mặt trận mời tôi với tư cách Viện trưởng Viện Hóa Ðạo GHPGVNTN” tham gia Thống nhất Phật giáo, Hòa thượng đưa việc đó ra hỏi ý kiến Hội Ðồng Viện Hóa Đạo, Thầy Thiện Minh nhân đó xin phát biểu:
“ Xin Hòa thượng Viện Trưởng đừng đưa việc đó ra đây làm khó chúng tôi !”
Hòa thượng Trí Thủ hỏi lại: "Làm khó cái gì?"
Hòa thượng Thiện Minh thưa: " Nếu Hội Ðồng nầy đồng ý để Hòa thượng làm việc đó với tư cách Viện trưởng Viện Hóa Ðạo, tức là đồng ý dẹp bỏ Giáo Hội này sau khi Giáo Hội mới thành lập. Còn nếu không đồng ý, thì có sự khó khăn đến với các vị trong Hội Ðồng và cả Giáo Hội ta nữa. Vậy Hòa thượng nên tự ý lựa chọn và làm với tư cách cá nhân của Hòa thượng mà thôi. Chúng tôi không thể nói nên hay không nên trong việc nầy" .
Lúc bấy giờ trong cuộc họp không ai có ý kiến gì khác, coi như mặc nhiên đồng ý với Thầy Thiện Minh đã nói. [ * ]
1977? Mai Chí Thọ Giám đốc công an Thành Phố HCM, trong cuộc họp với Phật Giáo, ông Thọ đã tuyên bố: “có thể quý thầy nói hàng ngàn người nghe, chúng tôi nói không ai nghe, nhưng chúng tôi có súng, có nhà lao, có quân đội. Tất cả chúng tôi có trong tay. Liệu các thầy có chống đối được không và chống đối đến bao giờ?”
Thầy Thích Thiện Minh trả lời: “tôi nghĩ rằng có lẽ ông đã nói sai. Hơn ai hết ông biết rằng trong suốt thời gian đương đầu với Pháp và với Mỹ, kẻ khác chứ không phải là ông đã nói ra những câu tương tự như vậy. Lịch sử đã chứng minh rằng súng đạn và nhà tù không phải là tất cả, lại càng không phải là yếu tố tất thắng. Một Ngô Ðình Diệm với 9 năm cai trị bằng mật vụ; một Tần Thủy Hoàng với chính sách bạo ngược đốt sách, chôn học trò. Kết quả như thế nào? Ðúng, chúng tôi, một tất sắt cũng không có trong tay và các ông thì có tất cả. Nhưng chúng tôi biết bài học lịch sử".
Cùng với Viện Hóa Đạo, Thầy Thiện Minh đã phản kháng mạnh mẽ trước những áp lực nặng nề của nhà nước XHCN giáng xuống GHPGVNTN. Những biến cố như thế đặt Thầy Thích Thiện Minh trước vô vàn nguy hiểm! Rồi Thầy bị bắt ngày 13-04-1978, bị giam giử, tra tấn và …
2. Thầy Thích Thiện Minh, Những năm tháng cuối đời.
Thầy Thích Thiện Minh bị bắt ngày 13 tháng 4 năm 1978. Bị giam giữ, tra tấn dã man ròng rã suốt 6 tháng trường, Thầy mất ngày 18-10-1978. Cộng sản buộc Thầy 3 việc: 1. Âm mưu đứng ra tổ chức chống phá cách mạng? và 2. Ký giấy giải tán Giáo Hội Phật Giáo Việt nam Thống Nhất. 3. Thầy phải giao nộp con dấu Viện Hóa Đạo cho họ. Nhưng Thầy đã cương quyết không chấp thuận. Chúng hỏi Thầy tại sao không chấp nhận. Thầy Thích Thiện Minh đã trả lời “Giáo Hội là Giáo hội của Phật tử. Các ông bảo chúng tôi ký giấy giãi tán Giáo Hội thì làm sao chúng tôi dám ký. Phật tử đã bầu chúng tôi làm Quyền Viện Trưởng Viện Hoá Đạo nhưng Giáo Hội không phải của riêng tôi. Nếu các ông muốn chúng tôi ký giãi tán Giáo Hội thì các ông hãy thả tôi ra, cho tôi triệu tập Phật tử để hỏi họ có bằng lòng giải tán Giáo Hội không?” Thầy Thích Thiện Minh vừa nói xong tức tốc bọn công an Việt cộng đánh bể hai hàm răng, đập đầu Thầy vào tường hết sức tàn bạo và Thầy đã ngất đi. Sau đó chúng đổ nước cho tỉnh lại rồi tra tấn tiếp.
Tên công an gằn giọng:
- Tôi hỏi lần cuối cùng: ông có chịu ký vào biên bản nhận mình có âm mưu đứng ra tổ chức chống phá cách mạng không? Thượng Tọa Thiện Minh lắc đầu: Không. Tên công an đập bàn quát:
- DM mày ngoan cố hả? Thượng Tọa Thiện Minh vẫn điềm đạm:
- Tôi không ngoan cố. Tôi chỉ đòi hỏi ông nêu ra những bằng cớ chính xác chứng minh là tôi đứng ra âm mưu tổ chức chống phá cách mạng. Thế thôi.
Tên công an gừ gừ mấy tiếng trong cổ họng nhưng cuối cùng hắn vẫn nín khe. Hắn guờm gườm nhìn vị Thượng Tọa ốm yếu đang ngồi xiêu vẹo trước mặt. Đôi long mày sâu róm của hắn cau lại, đôi môi giật giật liên hồi, mắt hắn long lên như đổ lửa. Rồi hắn đúng dậy, rít lên trong kẻ răng:
- Được, mày muốn, ông sẽ chứng minh cho mày thấy.
Hắn quay ra ngoài, gọi lớn:
- Đính đâu?
Một tên công an mặt mũi non choẹt nhưng hung ác te tái chạy vào:
- Thưa thiếu tá, có em.
Tên thiếu tá công an nhìn Thượng Tọa Thiện Minh, hất hàm:
- Đánh.
Không cần lời ra lệnh thứ hai, Đính hiểu ngay. Hắn bước từng bước chậm chạp lại gần thầy Thiện Minh. Thầy cố trấn tỉnh chờ đợi. Thầy nghe tiếng chân hắn khua trên nền gạch. Thầy nhìn bàn tay hắn co lại. Và thầy thấy hình như cánh tay hắn vung lên. Thầy bật người ra sau, ngã sóng soài dưới đất. Mắt hoa lên thấy cả một trời sao lấp lánh. Hai vệt máu từ từ lăn ra hai bên khoé miệng. Thầy rán lồm cồm bò dậy. Đính lặng yên đứng ngó: hắn đang chờ lệnh tiếp. Tên thiếu tá công an hất hàm:
- Tiếp.[hết trích]
(Bảo Trâm, [Lê Xuân Thuấn Kể], Câu chuyện Thầy Thích Thiện Minh, đd, tạp chí Quê Mẹ số 90 & 91, Paris, 1988)
Thầy bị đánh đập dập nát mặt mày, vỡ đầu, bị hành hạ đến sa sút, tiều tụy. Sau đó bị biệt giam trong phòng tối tăm, lột bỏ quần áo mà Thầy vẫn kiên cường đối kháng cho đến chết.
Dính dự trực tiếp đến cái chết của Thầy Thiện Minh là công an thành phố, trại X4 Sài gòn. Chính tên Đính công an chấp pháp, ra tay đánh chết Thầy Thiện Minh và 1 tên Thiếu tá truyền lệnh và chứng kiến cho tên Đính hành sự; tên Thiếu tá nầy lại nhận lệnh từ cấp trên là Lê Thanh Vân (Ba Vân?, con của sư Thích Thiện Hào, chùa Xá Lợi, TP thành Hồ, Phật giáo quốc doanh). Thảm sát cố Hoà Thượng xong bọn công an Việt công chuyển xác Thầy từ trại tạm giam X4 (số 258 đường Nguyễn Trãi) quận 1, công an thành phố về khám Chí Hòa. Thế nhưng khi xe chuyển xác vào đến sân khám Chí Hòa thì có “lệnh trên” bảo phải tức tốc chuyển ra Hàm Tân, Phan Thiết. (Bảo Trâm, [Lê Xuân Thuấn kể], Câu chuyện Thầy Thích Thiện Minh (xem phụ lục cuối bài). Nhân đây cũng nên tra cứu xem, trưởng phòng chấp pháp trại X4, công an TP vào năm 1978 là ai? Lật lại hồ sơ công tác chuyển tử tội Đỗ Xuân Hàng (Thích Thiện Minh) từ khám Chí Hòa – Hàm Tân tháng 10-1978 là gồm những ai?
Hai hôm sau, Thầy Thích Trí Thủ, chùa Già Lam, Gò Vấp, Viện trưởng VHĐ nhận được Giấy báo tử của phường, giấy chỉ có mấy dòng chữ: “Ông Đỗ Xuân Hàng, tên đạo là Thích Thiện Minh, sinh năm 1921 tại Quảng Trị, chết tại trại giam Hàm Tân thuộc huyện Hàm Tân tỉnh Thuận Hải vào ngày 18.10.1978. Lý do: bệnh”(câu chuyện Thầy Thiện Minh đd). “Trước sân chùa Quảng Hương Già lam ở Gò Vấp, Hòa Thượng Thích Trí Thủ cầm tờ giấy báo tử mà cứ ngơ ngẩn như xuất thần. Ông đọc đi đọc lại tờ giấy mỏng dính, vàng khè ấy không biết bao nhiêu lần. Vẫn có chừng ấy chữ. Nội dung thật vô cùng đơn giản. Thế mà nỗi thương tâm đau tận ngút ngàn”. Thầy Thích Trí Thủ cùng với vài vị Tăng trong Giáo hội cùng đi theo đoàn ra Hàm Tân nhận xác Thầy Thiện Minh. Theo người biết chuyện, Thượng tọa Thích TS (nghe nói cũng từng du học Ấn Độ, hiện nay định cư Hoa Kỳ) người đã từng thăm nuôi trường kỳ Thầy Lê Mạnh Thát lúc Thầy Thát còn trong nhà tù (Lê Mạnh Thát bị đi tù năm 1984) thì trong chuyến đi ra Hàm Tân bấy giờ có tiến sĩ Lê Mạnh Thát và người tiếp theo trong danh sách được nhận diện là Thượng tọa Thích Trí Quảng, chùa Ấn Quang, người đại diện cho Phật giáo Ấn Quang). Lúc bấy giờ nhà nước phân công tác cho Thầy Trí Quảng đại diện Phật giáo Ấn Quang. Thầy Trí Quảng cũng có mặt trong chuyến đi Cần Thơ trong âm mưu “hợp thức hóa” vụ án 12 vị Tăng ni Thiền viện Dược Sư tỉnh Cần Thơ tự thiêu cùng lúc vào tháng 11-1975.
Thầy Thích Trí Thủ với công an Hàm Tân, Phan Thiết:
Hòa thượng: xin được vuốt mặt người quá cố. Công an Hàm Tân không cho; Xin mang thi hài người đã mất về mai táng, cũng không cho; xin tham dự buổi lễ mai táng, cũng không cho; xin tụng 1 thời kinh ngắn cho người mất, cũng không cho. Tất cả, công an đều không cho với lý do: “cho dù đã chết, ông Đỗ Xuân hàng vẫn là 1 tội nhân”, mà tội nhân thì Nội qui trại không cho những yêu cầu như thế. Sau đó, thi thể của Thầy Thiện Minh bị chôn nhanh tại trại tù Hàm Tân, Phan Thiết và mọi dấu vết đã được xóa sạch. Đã thế, cộng sản cũng chưa “an lòng”. Về sau, họ xúi Thầy Thích Minh Nghị, công an nằm vùng Viện hóa Đạo, cải táng Thầy Thiện Minh đem đi thiêu lại, để sau nầy không còn có thể khám nghiệm tử thi được nữa (Thích Minh Nghị xem ở phần sau). Thế để biết, bàn tay bọn giáo gian góp phần không nhỏ kéo dài pháp nạn XHCN là như thế. Còn nỗi đau nào hơn! GHPGVNTN mất đi “con chiến mã” ngã quỵ sa trường. Chỉ vì kiên trì không cho bọn cộng sản chiếm đoạt GHPGVNTN mà Thầy đã phải vong thân. Quí Thầy trong Viện Hóa Đạo đã có phản ứng gay gắt vụ nầy như Thầy Thích Đôn Hậu, Thầy Thích Huyền Quang v.v…
“Mới đây, ông Lê Xuân Thuấn, nguyên là một cán bộ công an làm việc tại Viện Khoa học hình sự thuộc Bộ Nội vụ của cộng sản VN, không chịu đựng nổi sự thống trị nghiệt ngã dã man và vô cùng sảo quyệt của cộng sản, đã vượt biên tìm tự do. Trong thời gian công tác, ông Thuấn đã chứng kiến những sự kiện liên quan đến cái chết của T. T. Thích Thiện Minh từ đầu đến cuối thật khá rõ ràng. Nên từ trại tạm cư ở Thái Lan ông biên thư đã kế lại chi tiết gửi đến tạp chí Quê Mẹ ở Paris (Bảo Trâm, Câu chuyện Thầy Thích Thiện Minh) [ * ].
Được hỏi thăm từ Paris, cố Hoà thượng Thích Trí Thủ viết thư đề ngày 7.11.1978 cho đạo hữu Võ Văn Ái, Chủ nhiệm tạp chí Quê Mẹ và Chủ tịch Uỷ ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam, có mấy dòng xác nhận như sau : “... Thầy Thiện Minh đã qua đời một cách hắc ám tối tăm trong cơ cực, tin cho bà con biết. Khi Thầy nằm xuống, không một thân nhân ở đó. Khi được tin thì tôi cũng chỉ được quyền ngó mặt rồi họ giục về cho họ đi chôn. Muốn ở lại thêm họ cũng không cho (...)”. (Xem tư liệu trong tạp chí Quê Mẹ số 90 & 91, Paris 1988)
Vì sao nhà nước XHCN lại ngụy trang, chuyển xác Thầy Thích Thiện Minh ra Hàm Tân, Phan Thiết trong khi sự thật thì Thầy chết trong trại tra tấn X4 ở Sài gòn. Cũng dễ hiểu thôi, bởi lúc bấy giờ, tin Thầy Thích Thiện Minh vừa mất thì sáng hôm sau đài BBC đã đưa tin nóng nầy: “Hòa thượng Thích Thiện Minh thuộc GHPGVNTN đã chết trong nhà tù cộng sản” loan ra khắp thế giới. Dư luận Phật giáo thành phố lúc bấy giờ vô cùng câm phẩn, có thể bùng lên cao trào phản kháng nhà nước mạnh mẻ. Cho nên nhà nước đưa xác Thầy Thiện Minh ra Hàm Tân, Phan Thiết cách xa thành phố, đường đi, giao thông tồi tệ của những năm 1978 sẽ hạn chế được những điều bất trắc cho Xã nghĩa.
3. Thầy Trí Quang, Thầy Trí Thủ với cái chết của Thầy Thích Thiện Minh trong cách nhìn tham chiếu.
Nói thẳng vấn đề, một người tù chết trong nhà giam thì trách nhiệm đương nhiên thuộc về nhà nước. Ở đây hãy tìm hiểu cụ thể xem vai trò Thầy Trí Quang, Thầy Trí Thủ ra sao đối với cái chết của Thầy Thiện Minh và ai là người “dấy máu ăn phần” hoặc trực tiếp hay gián tiếp đến vụ án cũng như diễn biến chung quanh vụ án ra sao?
Thông thường, Nhà nước XHCN xử dụng giáo gian nhằm vào nhiều việc như: Một là tham khảo nội tình Phật giáo; hai là tham vấn [giáo gian] với tư cách là tổ chức vòng ngoài (những vị Sư quốc doanh, Linh mục quốc doanh) của họ trước khi nhà nước hành xử vụ việc, nhất là đối với những vụ “nghiêm trọng”; và ba là núp sau hậu trường, đẩy sư quốc doanh ra lãnh trách nhiệm trong thanh trừng, xóa sổ thành viên tôn giáo chống đối. Biến cố đưa đến cái chết của sư Thích Thiện Minh cũng không ngoài thông lệ như thế, nghĩa là có sự “gật đầu” của đám giáo gian chóp bu: Trí Quang, Trí Tịnh, Trí Thủ, Minh Châu, Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm, Hoàng Văn Giàu … Nhà nước đề xuất, giáo gian “gật đầu”; Mai Chí Thọ, Bộ trưởng Bộ nội vụ xuống lệnh, công an thành Hồ thi hành. Chung quanh cái chết của Nhà sư Thích Thiện Minh, có bàn tay giáo gian dính dự, giáo gian kia là những ai? Vai trò Thầy Trí Quang, Thầy Trí Thủ là thế nào.
Bấy giờ 1978 chiến dịch đánh phân hóa GHPGVNTN lên cao, nhà nước áp lực Viện Hóa đạo phải hợp thức hóa việc họ cướp giáo sản Giáo hội. Hoà thượng Thích HK phụ tá Tổng vụ Tăng sự GHPGVNTN (nhân chứng hiện còn sống tại TP HCM), người làm việc nhiều năm trong văn phòng Viện Hóa Đạo cho rằng Nhà nước xuống lệnh cho Hoà thượng Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN phải làm văn bản hiến cúng toàn bộ cơ sở Giáo sản GH cho nhà nước. Sư Thích Trí Thủ vốn là nhà sư Thân cộng ngay từ thời còn ở Ba La Mật, Huế. Nay trước áp lực XHCN nên đã dễ dàng làn văn bản giao hiến toàn bộ giáo sản GHPGVNTN từ Quảng Trị đến Cà Mau cho nhà nước. Văn bản sọan xong (có 3 người trong danh sách tình nghi dính dự đến soạn ra văn bản nầy là Lê Mạnh Thát, Thích Minh Châu và Thích Tuệ Sỹ), Hòa thượng Thích Trí Thủ trình cho Thầy Thích Thiện Minh (Đỗ Xuân Hàng), cố vấn VHĐ xem và “xin thỉnh ý”. Xem qua văn thư, Thầy Thích Thiện Minh bất bình quát lên: “bộ không sợ mất đầu à! Giáo sản là của Giáo Hội [của toàn thể Tăng ni, Phật giáo đồ] chứ là của mình đâu mà giao hiến”. Thầy Thiện Minh rất giận dữ nói tiếp: “việc lớn lao trọng đại như ri, sao không bàn trước, nay Thượng tọa đã ký [tên vào văn bản] rồi, thì còn ý kiến chi nữa! Liền sau đó, Thầy Thích Thiện Minh xé nát văn bản đang cầm trên tay. Việc nầy Thầy Thích Trí Thủ đem trình lên Sư Thích Trí Quang, Trí Quang phản ứng bằng sự “im lặng khó hiểu”. Sau vụ đó (vụ phản đối Sư Trí Thủ bàn giao Giáo sản GH cho nhà nước) không lâu sư Thích Thiện Minh bị bắt để đưa đến cái chết. Cho nên người biết chuyện cho rằng Thầy Thiện Minh bị bắt là có dự phần của Thầy Trí Thủ cũng như sự “gật đầu” của Thầy Thích Trí Quang. Trí Quang với Trí Thủ luôn “chung vai gánh vác việc Thống nhất Phật giáo, việc nầy Đỗ Trung Hiếu, Thống nhất Phật giáo đã xác định như thế.
31. Vai trò Thầy Thích Trí Thủ.
11- 03-1977, Trung tâm Quảng Đức, Trụ sở Tổng vụ Thanh niên (xưa là đường Công lý, nay là 294 Nam kỳ khởi nghĩa, đối diện chùa Vĩnh Nghiêm, Q3, Sài Gòn) bị khám xét, Thầy Thích Thiện Minh bị thâu thẻ cư trú, bị trục xuất khỏi nơi cư trú Trung tâm Quảng Đức. Thầy lang thang đó đây, bị khủng bố cao độ, không một chùa nào trong thành phố thành Hồ cho Thầy tạm trú bởi áp lực của công an. Cho nên Thầy về chùa Già Lam, Gò Vấp, Gia Định, tạm nương náu nơi đây. Nhà nước lại đến chùa Già Lam hỏi giấy tờ, Thầy không còn giấy tờ (giấy tờ đã bị họ đã giữ lấy) nên họ trục xuất Thầy khỏi chùa Già Lam. Do đó, Thầy về Lái Thiêu (Thủ Đức) tìm kế sinh sống. Ngày nọ Thầy ngồi ô tô trên đường từ Sài Gòn qua Gia định về Lái thiêu thì bị chận bắt với lý do vượt biên! Từ Sài gòn đi Lái Thiêu mà vượt biên ư? “Như thế thì mỗi ngày có hằng triệu người vượt biên đó, sao nhà nước không bắt mà chỉ bắt có Thiện Minh?” (Lời Thầy Thích Đôn Hậu chất vấn nhà nước).
Thầy Trí Thủ, Viện trưởng VHĐ với Thầy Thiện Minh, Phó Viện trưởng, VHĐ, cả 2 đã từng kề vai chung gánh việc Phật, việc Giáo hội qua bao cơn bảo dữ. Thế tại sao Thích Trí Thủ chùa Già Lam mà không giữ nỗi Thầy Thiện Minh nơi Mái chùa Già Lam, được sự bao bọc trong khuôn viên nhà chùa thì có an toàn hơn không, hơn là để Thầy phải lang thang rày đây mai đó bởi không một chùa nào lúc bấy giờ dám chứa Thầy cả. Dù rằng nhà nước áp lực không cho Thầy Thiện Minh ở chùa Già Lam là một lẽ. Thế nhưng hơn ai hết, Thầy Trí Thủ vốn biết rằng để Thầy Thiện Minh ra khỏi chùa Già Lam, lang bạt trên hè phố của những năm 1978, là lúc giai kỳ pháp nạn lên cao như thế thì cũng đồng nghĩa với Thầy “gật đầu” đưa đến cái chết cho Thầy Thiện Minh rồi. Chờ người ra khỏi nhà rồi tạo tai nạn giao thông như cái chết của nhà văn Lưu Quang Vũ [ * ] hay cộng sản âm mưu hại Thầy Thích Chánh Lạc, Hoa Kỳ qua Văn Thư Mật số 023/MV của CSVN vào năm 1999 ” [ * ]. Theo chỉ thị mật “Hãy triệt hạ bọn chống đảng và nhà nước ở Hải Ngoại và kế hoạch “Bằng mọi cách phải đuổi tên Chánh Lạc ra khỏi chùa Như Lai thì chúng ta mới có cơ hội diệt trừ nó”. Việc nầy cũng như tai nạn giao thông về cái chết của Ni sư Thích nữ Trí Hải 2003 đến nay vẫn còn trong nghi vấn bởi bàn tay cộng sản dự vào. Cho nên ngoảnh mặt để Thầy Thiện Minh ra đi khỏi chùa Già Lam, Thầy Trí Thủ xử sự như thế, mà Thích Trí Quang thì lặng thinh, sự im lặng khó hiểu của trí Quang trong trường hợp đó cũng có nghĩa là đồng tình rồi.
32. Vai trò Thầy Thích Trí Quang.
Nghi vấn Thích Trí Quang “gật đầu” đưa đến cái chết của Thích Thiện Minh càng rõ hơn nữa đó là. Sau khi vừa ra tù 14-01-1993 Thầy Thích Đức Nhuận, Cố vấn Ban chỉ Đạo Viện Hoá Đạo [ * ] đã đến thăm Sư Thích Trí Quang. Trong câu chuyện hàn huyên, Thầy Thích Đức Nhuận tỏ ý rằng việc Ngài được ra tù là do Quốc tế Nhân quyền can thiệp .v.v... Thích Trí Quang lại lên giọng kẻ cả: “đừng có mà hí hửng!
Việc nầy làm cho mọi người nhớ lại việc Thầy Thích Trí Tịnh “mách nước” với nhà nước (khi được nhà nước hỏi. Mà có lẽ nhà nước cũng chẳng cần hỏi, bởi biết Trí Tịnh là loại nhiệt tình có dư trong việc triệt hạ người cùng sắc áo kia mà) rằng “muốn giết rắn phải đập đầu nó” đã đưa đến việc nhà bắt Thầy Quảng Độ lần I và kết án 5 năm tù năm 1995, hay năm 1982 lưu đày về quê quán hai Thầy Huyền Quang và Quảng Độ cũng tương tợ như thế. Thích Quảng Độ, Nhận định về những sai lầm tai hại … [ * ]. Cũng như việc Sư Thích Minh Châu chụp mũ Thầy Thích Quảng Độ là: “Thượng Tọa Quảng Ðộ [lược] triệt hạ uy tín toàn Ban Vận Ðộng Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam phá hoại công cuộc thống nhất Phật Giáo, phản lại nguyện vọng tha thiết của tuyệt đại đa số Tăng Ni và đồng bào Phật tử cả nước, ngang nhiên thách thức với chánh phủ và Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. (Biên bản Ban vận động Thống nhất Phật giáo [ * ].
Những điển hình trên cho thấy Ba lãnh tụ GH Phật giáo quốc doanh (Thích Trí Quang, Thích Trí Tịnh, Thích Minh Châu) đang tâm triệt hạ Ba nhà lãnh đạo GHPGVNTN (Thích Thiện Minh, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ) là như thế đó. Cho nên Thành viên VHĐ, giới biết chuyện lúc bấy giờ chuyền tai nhau rằng “đưa đến cái chết của sư Thích Thiện Minh có sự “gật đầu” của sư Trí Quang là có cơ sở chứ không là nhận thức tùy tiện.
23-02-1969 Thầy Thích Thiện Minh bị chính quyền ông Thiệu bắt giữ, sau đó Thầy bị truy tố ra tòa với những tội danh: “phản nghịch, chứa chấp vũ khí bất hợp pháp và chưá chấp du đãng trốn quân dịch”. “TT Thích Thiện Minh bị mang ra xét xử trước toà án Mặt Trận Vùng Ba Chiến Thuật trong ba ngày, 12, 14,15 tháng 3/1969, và bị lên án 15 năm khổ sai. Thượng toạ được chính quyền miền Nam ân xá ngày 30/10/1969, nhờ sự can thiệp của Ân Xá Quốc Tế và phái đoàn Hoa Kỳ trong đó có dân biểu John Conyers.”
Ngay Luật sư Nguyễn Văn Chức, một Thượng Nghị sĩ Công giáo, vốn không ưa Phật giáo cũng đã nhận định rằng : “Riêng TT Thích Thiện Minh vẫn một lòng với đạo pháp và dân tộc, vì vậy đã bị Việt cộng tống giam, rồi chết trong tù. Phải chăng cái chết cuả Thượng Toạ Thích Thiện Minh đã khẳng định một sự thật? Sự thật đó, là: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thời Việt Nam Cộng Hòa không phải là Phật Giáo Ấn Quang của nhà sư Trí Quang thời đó, cũng không phải là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam quốc doanh hôm nay của Việt cộng. (Nguyễn Văn Chức, Thích Trí Quang và tôi) [ * ]
Như vậy, ngay từ những năm 1969, cách nay đã 40 năm mà Luật sư Nguyễn Văn Chức đã thẳng thắng vạch mặt “những kẻ núp sau tấm áo cà sa để tranh đấu gian lận, một chiều, phá họai chính quyền Quốc Gia, đâm sau lưng các chiến sĩ Quốc Gia, trói tay Quân Đội VNCH, và tiếp tay cho cộng sản thôn tính miền Nam.” của Thích Trí Quang rồi.
Vài điển hình như trên cho thấy Thích Trí Quang tìm luật sư biện hộ cho Thầy Thiện Minh là vì nếu để mất một Thiện Minh thao lược về tổ chức GH thì lấy ai làm “tướng quân mười đạo” bôn ba xông xáo cho ván bài mượn GHPGVNTN “làm bệ phóng” của Trí Quang. 10 năm sau (1969-1978), đến 1978 khi Thầy Thiện Minh chết trong ngục tù cộng sản, bấy giờ với Thầy Trí Quang, “giải phóng xong rồi” và Thầy Thiện Minh còn đó thì biết đâu, một Thiện Minh chống cộng lại là một “chướng ngại” với Nhóm Già Lam thân cộng nữa là. Cho nên không hề nghe, thấy Thầy Trí Quang bôn ba tìm Luật sư chống án cho Thầy Thiện Minh trong chế độ XHCN như Trí Quang đã từng làm thuở 1969 mà chỉ thấy đơn độc một mình Thầy Thích Đôn Hậu gào thét lên án bọn ác ôn cộng sản, chia sẻ chút tình thâm pháp lữ với bạn đồng liêu qua Đơn từ chức Đại biểu Quốc hội khóa 6 (1978) nhà nước XHCN (Hòa thượng bị áp chế ghi tên ứng cử Quốc Hội) như đã biết. Bấy giờ Thầy Trí Quang ở ngỏ ngách mô? sao lại ngậm câm như hến vậy. Thầy Thiện Minh từ bị bắt cho đến lúc mất là ròng rã hơn 6 tháng trường (04-1978 đến 10-1978) trong ngục tối, thế mà Thầy Trí Quang bình chân như vại, gặp chuyện quay lưng vào vách (xúc sự diện tường) như thế thì có đáng bậc trượng phu chăng? Với những ai đã từng tâng bốc ông ta: lên hàng “Trí Quang thượng nhân” thì qua cách ứng xử của Thái Thượng Hoàng Phạm Văn Bông trước cái chết của Thầy Thích Thiện Minh xin kẻ đó hãy cáo khắp với mọi người mà rút lời vàng tâng bốc hố kia lại và trả “nhà sư có tham vọng chính trị” trở về nguyên chất của ông ta đi.
Cho nên, Người biết chuyện cho rằng cái “gật đầu” của Thích Trí Quang như là “giọt nước tràn ly” đưa đến cái chết của Thầy Thích Thiện Minh. Như vậy, trước cái chết của Thầy Thích Thiện Minh, Thầy Trí Quang, Thầy Trí Thủ, kể cả Thầy Minh Châu, Hoàng Nguyên Nhuận tức tên Hoàng Văn Giàu Phật tử giả hiệu nằm vùng cùng nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường ở Huế, và Thích Minh Nghị có góp phần “chấm - mút” ít nhiều. Việc nầy hãy để lịch sử chấp bút. Có điều là 3 năm sau, đến 1981 Thầy Thích Minh Châu “muốn mượn chiếc búa tạ để đập nát hạt đậu nhỏ” qua việc “gật đầu”, xuống tay, hạ bút đưa đi đày hai Thầy Huyền Quang với Quảng Độ, bằng chứng Văn bản còn rõ ràng ra đó.[ * ]. Thì nay 1978 Thầy Thích Minh Châu góp phần đưa đến cái chết của Thầy Thiện Minh, đó là “chuyện thường ngày ở huyện” nhà mà thôi. Điều cần nên biết thêm là mọi việc diễn ra tại chùa Già lam có liên quan đến Phật giáo hay của Thân hữu Già Lam đều phải thông qua “kiểm soát” của Thái Thượng Hoàng Trí Quang cả. Trí Quang, một con người lặng lẽ nhưng không phải là không nói, bởi sau Thầy Trí Thủ mất (1988) thì còn có Thích Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát, Nhất Hạnh, vốn là học trò cũ đã thay Thầy mình nói hết cả rồi.
33. Ông Lê Xuân Thuấn (người cán bộ cộng sản cảnh tỉnh) nói về chết của Hòa thượng Thích Thiện Minh.
“Thượng Tọa đã bị tra tấn cho đến chết ngay ở Sàigòn, tại Trại X4 (ở đường Nguyễn Trãi, SG) là trại thẩm vấn (hiểu là tra tấn) và tạm giam trước khi phân phối qua các nhà tù hay trại tập trung. Cộng sản đã chở xác Thượng Tọa ra Hàm Tân để đánh lạc hướng biểu tình của Phật tử ở Sàigòn đang sôi động sau những ngày Thượng Tọa bị bắt”. (câu chuyện Thầy Thiện Minh đd).
4. Giáo gian – đặc tình cấu kết với cộng sản đánh phá GHPGVNTN trong cách nhìn tham chiếu.
Những kẻ “dấy máu ăn phần” trong cái chết của sư Thích Thiện Minh đó là: Mai Chí Thọ, Bộ trưởng Bộ nội vụ; Hoàng Văn Giàu; Công an Lê Thanh Vân; Công an chấp pháp tên Đính và đặc biệt là Thích Minh Nghị, chùa Long Vĩnh, Sài gòn.
41. Vai trò Mai Chí Thọ, Bộ trưởng Bộ nội vụ.
Mai Chí Thọ, người gây nhiều oan trái với GHPGVNTN trong suốt mùa pháp nạn. Câu chuyện Mai Chí Thọ với GHPGVNTN sẽ nói vào một dịp khác.
42. Vai trò Hoàng văn Giàu.
Trong “chiếc áo” Trưởng ban chấp hành Đoàn sinh viên Phật tử Sài gòn 1967 (Quán Như, Mối tình đoàn hữu hơn ba mươi năm) [ * ], Hoàng Văn Giàu (còn có tên nặc danh Hoàng Nguyên Nhuận, Giới Tử, v.v... khi viết lách) “lặn sâu” vào tổ chức Thanh niên Phật tử Sài gòn, trước theo phò Hòa thượng Thích Trí Quang, sau do theo chiến lược mới, được “trên giao” nhiệm vụ mới nên chạy sang ôm chân Hòa thượng Thích Thiện Minh, (Đỗ Xuân Hàng), Cố vấn Ban chỉ đạo, Viện Hoá Đạo (1977). Nằm trong nhóm đặt tình phản gián cao cấp của cộng sản, Theo Quán Như (đd), Hoàng văn Giàu có nhiều tên, hiệu: Hoạt động trong Gia Đình Phật tử Việt nam thì có tên là Anh Giàu; ở báo Lập Trường thì có tên là Hoàng Nguyễn Tùy Anh, Chung Hoàng, Ngô Chu Hà; ở báo Vấn Đề và Hải Triều Âm Phật Giáo thì có tên là Tùy Anh; trong những bài đánh phá GHPGVNTN có tên là Huỳnh Công Hòe; Hoàng Nguyên Nhuận. Ở lò Giáo Điểm thì có tên là Giới Tử. Do đó Hoàng Nguyên Nhuận có cùng “nhóm máu” với Nhóm Phật Giáo vì dân tộc… Xô Viết, Nhóm Tăng Ni Hải ngoại của Thích Nguyên Siêu – Bùi Ngọc Đường điều nầy đã quá rõ rồi.
Đồng hội đồng thuyền” với Hoàng văn Giàu còn có: Nguyễn Long, Đoàn Viết Hoạt, Quán Như (bộ ba nầy do Thích Minh Châu biệt phái từ Bộ Giáo Dục (thời Thiệu Kỳ) sang làm việc cho Viện Đại học Vạn Hạnh. Vĩnh Tùng, Vĩnh Kha, Huỳnh Ngọc Ghênh, Nguyễn Thế Côn, Trần Xuân Kiêm, … Sau biến động miền trung 1967 cơ sở cộng sản nằm vùng tại Huế của họ bị đánh tan tát, bọn nầy chạy bán mạng vào Sài gòn. Bản doanh vun thân của nhóm nầy là: Chùa Pháp Hội (chợ Bàn cờ), Trung tâm Quảng Đức, trụ sở Tổng vụ Thanh niên (hiện nay GHPG quốc doanh chiếm đoạt làm VP2), cư xá Viện Đại học Vạn Hạnh. Quán Như, mối tình đoàn hữu hơn 30 năm, Ông Như đã ca Hoàng Nguyên Nhuận lên mây xanh. Thế nhưng bài ca “mẹ hát con vỗ tay” kia quá dở khiến người đọc thấy rõ bộ mặt đặc tình tôn giáo Hoàng Nguyên Nhuận. Tự choàng cho mình “chiếc áo Thanh niên Phật tử”, thế nhưng Nhuận thuộc loại xấc láo, cao ngạo với lãnh đạo GHPGVNTN, điều nầy càng lộ rõ qua bài: Hoàng Nguyên Nhuận, Hạnh nguyện của một nhà sư [ * ]. Theo đó cho thấy Hoàng Nguyên Nhuận vốn từ lò Giao Điểm với bút hiệu Giới Tử. Đọc Giao Điểm, Chuyển Luân, Đông Dương Thời báo rồi quay sang đọc Hoàng Nguyên Nhuận thì người đọc sẽ dễ dàng để thấy Nhuận cũng lập lại chiêu thức y chang đặc tình Tôn giáo vận cộng sản khi đánh phá GHPGVNTN.
Đọc Hoàng Nguyên Nhuận, Hạnh nguyện của một nhà sư để thấy cái cao ngạo của Nhuận đến độ nào: “Xa cách sơn môn tổ đình, xa cách những tôn đức trưởng thượng, số Tăng Ni này hành xử như gà bươi bếp, tranh nhau lên chức như một đám kiêu binh ô hợp. Phật tử hải ngoại mấy ai khỏi thống tâm khi nghe đến chuyện Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn ở Melbourne ra thông bạch, chuyện ĐĐ Quảng Ba ở Sydney đã bay qua New Zealand phong cho một ĐĐ trú trì bên đó lên TT, chuyện HT Thượng Thủ Tâm Châu, bỏ áo nâu áo lam đắp y Tiểu Thừa, chuyện Tỳ kheo Tiểu Thừa Hộ Giác nhảy lên làm HT là một chức tước của Đại Thừa quy định trong Kinh Phạm Võng về Bồ Tát giới, cũng như Tỳ kheo Hộ Giác đã trịnh trọng ban đạo từ về Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm là vị Bồ Tát mà Tiểu Thừa không hề biết đến”.
“Trước khi Thiền sư Nhất Hạnh về, đám tàn quân “Thống Nhất” đã được Võ văn Ái kích động tột độ. Và không chỉ một mình Võ văn Ái mà thôi. Trước đó, một trong những thành phần kỵ chuyền về của Nhất Hạnh đã phong tặng cho HT Quảng Độ tước hiệu Đạo Pháp Trung Thần, không biết có phải với dụng ý mong HT tự thiêu? Chưa kể đám CCCB (Chống Cộng chết bỏ), CCCĐ ba mươi năm nay ra rả đòi bóng ma cộng sản phải giải thể tức khắc”.
“Ba mươi năm nay những tẩu tướng hàng thần chạy lọt ra ngoại quốc đã ê tay rã họng ra tuyên ngôn tuyên cáo đòi đủ thứ và đã được gì? Không lý giờ đây Nhất Hạnh lại phải hợp ca với Phở Việt Tân, Nguyễn hữu Chánh, Nguyễn Khánh, Lê Minh Đảo, Nguyễn xuân Vinh, Nguyễn hữu Luyện, Võ văn Ái bài ca con cá sống vì nước, tôi đây sống nhờ tranh đấu nhân quyền và đòi cộng sản giải thể tức khắc? Và tức khắc mấy chục năm rồi?”
Đọc Giao Điểm:
Đọc các bài viết của Giới Tử (tức Hoàng Văn Giàu), Sư tử trùng tại sao?[ * ]; Giới Tử, Giáo Hội và Giáo Hội; Giới Tử, thượng thủ pháp sư bội chủ để thấy tính xấc lao, ngạo mạn đến độ nào của một Hoàng Nguyên Nhuận (bút hiệu của Giới Tử), người được Quán Như, mối tình đoàn hữu hơn 30 năm ca tụng là hoạt động lâu năm trong Đoàn thanh niên Phật tử Sài gòn, từng kề bên hàng lãnh đạo GHPGVNTN hay Nhuận chạy gạo, kiếm cơn, bằng ngòi bút ca tụng cộng sản; tiếp tay với tội ác, nhắm mắt trước bao đau thương của dân tộc mình. Tổng quan từ danh mục Hoàng Văn Giàu cho thấy, ngòi bút của Nhuận chỉ là loại “bút máu” theo như điều mà Vũ Hạnh, bút máu đã từng nói vậy.
Cho dù núp dưới chiếc áo nào đi nữa thì chân tướng Hoàng Nguyên Nhuận, Giới Tử cũng đã được Nguyễn Sĩ Tiến, Nghè Trần Chung Ngọc: một tâm địa xỏ lá, một kiến thức sơ sài về Nhân quyền (2001); và Nguyễn Sĩ Tiến, Theo lệnh ai Tổng Đàn, Giới Tử, Hồng Quang từ lò Giao Điểm... ba mặt một lời đánh phá Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (2003) cũng như Tâm Thông, Lê Minh Tuấn, Vạch trần mặt thật của nhóm Giao Điểm trước ánh sáng sự thật từ lâu rồi.
Cho nên không còn lạ gì khi trước Hoàng Nguyên Nhuận ai điếu Thích Mãn Giác theo điệu hò: đưa con sáo qua sông rồi đến Chuyến về Việt Nam của Nhất Hạnh 2005, Hoàng Nguyên Nhuận lại “sáu câu vọng cổ” mà ca Nhất Hạnh theo bài Hạnh nguyện của một nhà sư; rồi tiếp đó Nhuận cũng không quên đánh phèng la kêu gọi nhóm người: trước kia ủng hộ Hoà thượng Thích Mãn Giác thì nay hãy ủng hộ Nhất Hạnh. Trong khi đó Hạnh-Phượng hoạt động đặc tình Tôn giáo vận cộng sản như thế nào, điều nầy Quách Thị Tam Thê, Nhất Hạnh một dòng sông đã chết đã nói [ * ] (cũng như Quách Thị Hương Giang, Nhất Hạnh âm mưu đảo chánh GHPGVNTN không thành [ * ] cũng đã nói rồi. Mới đây ngày 20-12-2007 Đại tá Lê Công Hoàng, Phó cục trưởng, Cục Hải quan thành phố ký công văn “về việc hỗ trợ ông Bùi Hồng Quang được mang “khỏang 420 quyển tạp chí “Giao Điểm số 65 để xuất cảnh ra nước ngoài”. Với chừng ấy chứng cứ để biết nhóm Giao Điểm là ai? Từ đó cũng sẽ biết luôn Tiến sĩ Thích Nhật Từ (cán bộ trí vận) là ai, số đảng tịch Nhật Từ còn đang giải mả, ai biết xin báo khắp mọi người cùng biết thì thật là phúc đẳng hà sa còn hơn xây chín bậc phù đồ nữa đó.
Từ đó dòng chãy đặc tình Tôn giáo vận cộng sản đã lộ ra những Nhất Hạnh + Thích Mãn Giác + Hoàng Nguyên Nhuận (Giới Tử); Trần Chung Ngọc, Thích Nhật Từ. Hay có kẻ đánh đồng GHPGVNTN với cộng sản rồi đánh phá như kiểu Tú Gàn, Chu Sa, Tâm Đạt, Bạch Linh, Kim Nguyên, v.v … của bọn Cần Lao phục thù thì đó là loại văn nô múa bút … kiếm cơm, chạy gạo thật đáng thương sót vô bờ.
Một mặt Hoàng Nguyên Nhuận ca ngợi Thầy Thích Mãn Giác, là ông tổ thân cộng qua vụ tổ chức “mừng lễ chiến thắng 15-05-75” và “mừng sinh nhật Hồ Chí Minh 19-05-75”, rồi đến 2007 con bài Thích Mãn Giác trong vai trò Tổng Giáo Hội sắp được Đảng đưa lên sân khấu “chào hàng” trong ngoài nước theo chiến lược xoá sổ GHPGVNTN bổng đâu Thích Mãn Giác lăn đùng ra chết tốc hành không kịp trăn trối! (Thích Thông Kinh – Thích Đồng Điển, đặc tình Xã nghĩa cũng đang hấp hối, nay mai Xa nghĩa sẽ có Cáo phó đó các bạn ạ) Sau đó Hoàng Nguyên Nhuận trở cờ kêu gọi mọi người quay sang ủng hộ “gánh xiếc” làng Mai về Việt Nam 2007 của Nhất Hạnh. Mà con người thật của Nhất Hạnh là gì? Điều nầy không còn xa lạ nữa. Cứ hể nơi mô mà có đoàn hát bội: “võng anh đi trước, võng nàng kề bên” là đích thị giáo chủ Mai thôn Hắn Ta Đấy. Hai lần về Việt Nam 2005 rồi 2007 Tăng thân mở rộng đâu thì chưa thấy mà ngay cả “căn cứ địa cuối cùng của làng Mai tại Huế cũng đã mất” (Quách thị Song Phu, Hiện tượng Nhất Hạnh). Đến nay, trong lòng Tăng ni Việt nam, đoàn múa rối Làng Mai chỉ còn là xác chết mượn hồn biết đi theo vỡ tuồng “hồn Trương ba, da hàng thịt” mà thôi.
Hoàng Nguyên Nhuận nói: “PG nhờ dân tộc mà có cơ hội thi hành công quả, dân tộc nhờ có PG mà thăng tiến, không đọa lạc. Chính là vì vậy mà có thể nói phục vụ dân tộc là phục vụ PG, và phục vụ PG là phục vụ dân tộc” (Hoàng Nguyên Nhuận, Ngày kỵ Thầy) [ * ]. Úi chà! Hơi hám câu nói trên quả là Y Chag giọng điệu của Nhóm Phật giáo Vì dân tộc ... Xô Viết quá hè. Xin hỏi Phật giáo vì dân tộc mà dân tộc nào vậy? Dân tộc cũng có “năm ba bảy đường” như Nàng Kiều nói đó; hay Phật giáo Vì dân tộc Mác – Lê- Hồ [ * ], nếu thế thì sao ông Nhuận không quịt tẹt mẹ nó ra quần cho mọi người biết mặt luôn đi. Làm vậy mới ngon, thiên hạ mới phục theo cái kiểu “dám làm dám chịu” chứ cứ thụt ló, ló thụt như phường buôn hương bán phấn chốn “Giấc mộng lầu Hồng” như rứa thì kẻo thiên hạ lầm cái đám “đánh phá Nhà thờ cầm cờ Phật giáo” như bao năm qua mà tụi nghiệp quá quá hè!
43. Vai trò Thích Minh Nghị, chùa Long Vĩnh, Sài gòn.
Thích Minh Nghị gốc chùa Long Vĩnh, Sài gòn, là cộng sản nằm vùng trong Viện Hóa Đạo. Do luồng lách vào làm đệ tử “ngang hông” Thầy Thiện Minh. 1978 giữ chức vụ Phụ tá Thư ký (Thích Minh Kiến phó Tổng thư ký VHĐ) kiêm Chánh văn phòng Viện Hóa Đạo. Quá trình công tác tốt, đến 30-04-75 đeo quân hàm cấp Thượng tá, có mang colt trong người, việc nầy nhiều người rõ biết. Minh Nghị thường với Thích Pháp Châu là cặp bài trung trong công tác kinh tài hải ngoại dưới quyền điều hợp của Thích Đồng Điển (Thích Thông Kinh,) chùa Đông Hưng, Sài gòn. Nhóm kinh tài – Trí vận nầy: Thích Thông Kinh, Pháp Châu, Minh Nghị, Nhật Từ, Bùi Hồng Quang, họ đi về Hoa Kỳ - Việt nam như đi siêu thị bởi khi qua cửa hải quan đều có “bùa hộ mệnh” đi kèm (xem giấy công tác của Bùi Hồng Quang, phụ lục cuối bài) . Do tánh khi hung bạo, Minh Nghị đã đánh chết một chú tiểu trong chùa nên bị thất sủng.
5. Từ vụ án Thích Thiện Minh (1978) đến những biến động phân hóa GHPGVNTN hải ngoại ngày nay (2008) đến “những con bạch tuộc săn mồi dấu mặt”.
Tập san Chuyển Luân, Hoàng Nguyên Nhuận tự ví đời mình gói gọn trong “ba giải”: Đối với tư tưởng ông kêu gọi giải hoặc; đối với lịch sử ông theo hướng giải thực; và đối với tôn giáo ông biểu tỏ giải nghiệp (Hoàng Nguyên Nhuận, Phồn hoa kinh, đd)
Từ vụ án Thích Thiện Minh (1978) đến “Phật giáo thời Cộng sản và những liên hệ gây động loạn và mâu thuẫn” (xem http://www.queme.net/vie) [ * ] đến những biến động GHPGVNTN hải ngoại hôm nay trong cách nhìn tham chiếu để xem Hoàng Nguyên Nhuận (Hoàng Văn Giàu, điệp viên tôn giáo dưới quyền Tướng tình báo cộng sản Ba Quốc, bí danh của Thiếu tướng tình báo Đặng Trần Thức nằm vùng ở Saigon trước 1975) [ * ] trong quan hệ với Sư Thích Mãn Giác, với Châu Văn Thọ (Chủ nhiệm kiêm chủ bút Báo Phật giáo Việt nam); với Nhất Hạnh, Thích Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát, Bùi Ngọc Đường, Trần Quang Thuận cộng hợp điều phối cùng Bát đại Huề thượng (nhóm Về Nguồn); với Bùi Hồng Quang, Trần Chung Ngọc, Thích Nhật Từ (nhóm Giao Điểm); với Thích Thông Kinh, Thích Hạnh Đạo (nhóm đặc tình), họ đã và đang giải hoặc, giải thực và giải nghiệp kiểu nào đây?
Chùa Phật giáo Việt nam, Los Angeles, California, Hoa Kỳ của Thầy Thích Mãn Giác (1922-2006), rồi Thích Nguyên Hạnh, rồi Thích Nguyên Đạt, nói đây là Bản doanh, là Tổng hành dinh giải hoặc của nhóm Hoàng Nguyên Nhuận. Thế nhưng, chùa Phật giáo Việt nam, lúc Thích Mãn Giác chưa về châu “tổ Mác” thì những năm 2003, nơi đây thả dàn cho Châu Văn Thọ cùng với lão Tướng Đỗ Mậu và bọn Hồng Quang, Hồng Phấn, Lê Hậu (tức Thích Nguyên Hạnh), Bùi Ngọc Đường, Trần Quang Thuận, cả đồng bọn cùng đối ẩm những chiêu “đâm sau lưng” chiến sĩ người Việt tỵ nạn cộng sản. Lúc bấy giờ Giới Tử, Cơn bảo trong tách trà [ * ] cũng “đánh hôi” ăn bả, to mồm bênh vực cho Thích Mãn Giác, con ngáo ộp cũa XHCN. Rồi năm 1989, nhóm Giao Điểm (theo tôn chỉ: “đánh phá nhà thờ cầm cờ Phật giáo”) đả kích Luật sư Nguyễn Văn Chức theo kiểu “chó vua Thuấn sủa vua Nghiêu” khi Ông Chức “giải mã’ Thích Trí Quang qua bài Nguyễn Văn Chức, Thích Trí Quang và tôi [ * ]. Đến khi nhà nước Xã nghĩa sắp sửa “ra trình làng” vào năm 2007 qua ván bài “Tổng Giáo Hội” Phật giáo Việt nam thì bổng hoạnh tai chi hoạnh tử, Huề thượng thi sĩ Huyền Không bổng “đứt dây chuông” mà về chầu “Tiên – Sư – Cha – Bác”, khiến cho ông Nhuận hụt hẩng “cuộc chơi” nên bèn phải “bóp bụng” đổi tông mà múa bút hô hào người người: “trước kia ủng hộ Thầy Mãn Giác thì nay hãy quay hướng con tàu sang ủng hộ Nhất Hạnh về Việt nam 2007. Quái chiêu chưa? Từ Chùa Phật giáo Việt nam , Huê Kỳ mà lại LINK sang tận làng Mai, Pháp quốc, cái “cáp ngầm liên lục địa” kia được nối kết từ hồi nào rồi vậy ta? Trong khi Hoàng Nguyên Nhuận nói:“PG nhờ dân tộc mà có cơ hội thi hành công quả”. Nói thế mà nghe được ư?
Ở đây cũng nên nói tới việc trở cờ của Thích Mãn Giác, một tu sĩ kiêm thi sĩ hiền lành nhưng háo danh và mê đắm phụ nữ, từng có vợ Nhật thời du học Nhật trước 75. Ai cũng biết Thích Mãn Giác tranh chấp và thù ghét Thích Minh Châu thời Đại học Vạn Hạnh. Sau này vượt biển sang Mỹ nối gót Thầy Thiên Ân làm chủ chùa Việt Nam vùng Los Angeles, California. Cộng sản cử người tới bắn tiếng là sẽ giao trả Đại học Vạn Hạnh lại cho Phật giáo và sẽ mời Mãn Giác về làm Viện trưởng. Cơ hội cho Mãn Giác rửa thù Minh Châu. Thế là Mãn Giác híp mắt « giả từ chống Cộng », ngồi chờ Cộng sản rước về làm Viện trưởng. « Trả Đại học Vạn Hạnh » lại cho Phật giáo là miếng mỡ treo trước miệng mèo Thích Mãn Giác, và nay là trước miệng mèo Lê Mạnh Thát và Thích Tuệ Sỹ ! Than ôi, món mồi danh lợi không chỉ thu hút người đời thường mà ngay cả giới Hoà thượng, Thượng toạ như Thích Mãn Giác, Lê Mạnh Thát, Thích Tuệ Sỹ cũng đua đòi, giành giựt.
Trong nhà Phật chỉ có vun bồi công quả hay tu tạo phước điền hay tu tập thiện duyên, phước duyên, thắng duyên chứ kho tàng Ba tạng thánh giáo nhà Phật không hề có cái cụm từ “nửa nạc nửa mỡ” thật vô duyên như cụm từ thi hành công quả cả. Công quả mắc gì lại thi hành? Thì cứ tẹt ra quần mẹ nó là thi hành “chỉ thị trên giao” cho nó oai hay cứ “lời chào cộng sản” như [2 bức] Thư Hồ Chí Minh gởi Stalin [ * ] cho nó thuần hóa luôn thể. Còn như ông Nhuận nói: “dân tộc nhờ có PG mà thăng tiến, không đọa lạc”. Đây lại là cái kiểu ngoại lai, vong bản mất gốc nữa rùi. Khi Phật giáo chưa gieo hạt trên vùng đất Giao Chỉ - Giao Châu thì dân tộc nầy cũng đã thăng tiến và “ăn nên - làm ra” những chiến công lẫy lừng “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” mà không bị đồng hóa bởi Hán tộc phương Bắc, Tuy có chậm tiến, thăng tiến chứ chưa bao giờ dân tộc Việt do vì không có Phật giáo mà trở nên đọa lạc như ông Nhuận nói cả. Có đọa lạc chăng là kể từ khi chủ nghĩa Mác- Lê do tên tội đồ Hồ Chí Minh áp đặt cho dân tộc Việt nầy. Từ đó, xã hội phân hóa, lòng người ly tán, con trai Việt phải nô lệ vạn dậm cõi ngoài theo cái gọi là “xuất khẩu lao động”; con gái Việt bị đem trưng bày ở chợ ngưởi quốc tế cho cái gọi là xuất khẩu hôn nhân; Rồi cột mốc đất liền biên giới Việt – Trung “biết đi”, lãnh hải trên biển Việt - Trung “biết trôi”, lần mất về tay Tàu cộng. Nhuận ơi! Chưa nghe một lần ông hỏi: chừng nào bầu trời không phận Việt nam xuất khẩu cho Tàu nữa đây. Cái đọa lạc mất nước như thế 80 triệu đồng bào ai cũng thấy, cũng biết cũng nghe mà sao nhóm Giáo Điểm - Chuyển Luân, Đông Dương thời báo của ông không nói ? Hay ông muốn nói phục vụ dân tộc [XHCN] là phục vụ PG, và phục vụ PG là phục vụ dân tộc [XHCN]. Nếu thế thì ông cũng nên nói rõ luôn cho người người cùng biết, cho cả Sư Thích Tín Nghĩa, Hoa kỳ cùng biết là: Cái chết của Thầy Thiện Minh là do cộng sản giết; mà do cộng sản giết là gây ra cái chết của Thầy Thiện Minh. Quá đúng 100% luôn, cho đi thẳng vào Lăng Ba Đình bưng ... bô Bắc bộ phủ mà khỏi thông qua tuyển chọn, hay lựa lọc gì ráo. “Cung kính bất như phụng mệnh”, là Truyền thống tổ đạo 2000 năm đó. Chỉ cần Sư Thích Tín Nghĩa cũng như Ông Nguyên Nhuận Hoàng Văn Giàu mà cùng cất cao tiếng nói trên trang nhà www.phatgiaovietnam.net : Thầy Thiện Minh Chết Trong Nhà Tù Cộng Sản. Thầy Thiện Minh Chết Trong Nhà Tù Cộng Sản. Thầy Thiện Minh Chết Trong Nhà Tù Cộng Sản. Chỉ chừng ấy thôi thì mỗi năm Sư Tín Nghĩa khỏi cần phải “Ngày kỵ Thầy” hay “Ngày giỗ Thầy” hay Ông Nhuận củng khỏi phải ca bài “Hạnh nguyện của một nhà sư” rùm beng để hòng lừa dối thiên hạ nữa, làm thế thì tội nọ bằng non, chín sông khôn rữa sạch sạch. Mà thiên hạ thì không thể bị lừa dối mãi được đâu. Thích Tánh Hải, Tôn giáo hoà hợp XHCNVN, bài học tang thương máu - lệ suốt 70 năm (1930-2007) mà nay vẫn chưa phai [ * ] là công án cho chúng ta tư duy trên đường giải trừ pháp nạn XHCN. Cám ơn Thầy Thích Tánh Hải thật là nhiều. Mô Phật.
Rồi nay lại có con nhạn lạt đàn Sư Thích Giác Nhôm [Giác Nhiên], giáo chủ đạo chàng hảng (chẳng Nam tông, cũng không Bắc tông mà lại nằm giữa “ngã ba Bà Điểm, Hóc Môn”), chẳng lo giác ngộ, giác chiếu, giác giường, giác chổng mà lại đi giác tào lao, bá láp đứng đầu danh sách Cộng đồng Giáo hội Phật giáo Việt nam hải ngoại trông dáng vẻ Thích Giác Nhôm nầy, nó hợm hỉnh khác nào cái Mồng gà trên cổ vịt vậy hỉ. Thượng thủ Thích Tâm Châu bởi sa chân theo đám Về Nguồn Xã nghĩa nên đã cháy rụi sự nghiệp xế chiều để nhập bọn cùng với đám “đâm trâu thất nghiệp”: Thân hữu già Lam. Nay Sư Giác Nhôm [Thích Giác Nhiên] lại đi “rao bán thuốc dạo Sơn Đông” ra Tâm Thư phóng xạ ô nhiểm gì nữa đây.
6. Phản kháng của GHPGVNTN chung quanh cái chết của Thầy Thích Thiện Minh.
Chung quanh cái chết của Thầy Thích Thiện Minh, dù áp lực bạo quyền luôn răn đe những ai lên tiếng đòi công lý cho vụ án, vẫn có những tiếng nói phản kháng vang lên, mở đường trước nhất và mạnh mẽ nhất là Thầy Thích Đôn Hậu; Thầy Thích Đức Nhuận, Thầy Thích Huyền Quang; Thầy Thích Quảng Độ. ..
Thầy Thích Đôn Hậu: - “Thiện Minh chết không phải vì xuất huyết não, mà vì BÀN TAY TỘI ÁC CHÍNH TRONG CƠ QUAN TẠO RA!”; và -“Hãy dưa cái chết của Thượng tọa Thiện Minh ra ánh sáng, nghĩa là phải đưa cái người giết Thiện Minh ra ánh sáng. Không nói lôi thôi gì hết. Có người giết!” (xem: Phụ lục, phần 2. Thích Đôn Hậu, Lời tuyên Bố).
Thầy Thích Huyền Quang (Quyền Viện Trưởng Viện Hoá Đạo GHPGVNTN), Tuyên Cáo Ngày 20 .11.1993 có đoạn: “Thực hiện Chúc Thư do Ngài [Thích Đôn Hậu] để lại, Văn Phòng Lưu Vong Viện Hoá Đạo GHPGVNTN đã viết "Đơn Xin Cứu Xét Nhiều Việc", (lược) và minh bạch hoá việc Công an TP Hồ Chí Minh tra khảo đến chết Hoà Thượng Thích Thiện Minh năm 1978.[*].
Thầy Thích Quảng Độ, 4 điểm Thống nhất Phật giáo. “Thứ tư, làm sáng tỏ cái chết của Cố Hòa thượng Thích Thiện Minh năm 1978” [ * ]
7. Truyền thông Phật giáo quốc doanh xuyên tạc về cái chết của Hòa thượng Thích Thiện Minh.
Cái chết của Thầy Thích Thiện Minh đã bị nhà nước bưng bít từ hàng chục năm qua. Một số tờ báo lao nô cộng sản như Báo Giác Ngộ, Thành hội PG TP HCM; Từ trang nhà www.quangduc.com của Thích Nguyên Tạng, Thích Tâm Phương, Thích Thiện Hiền, Thích Giác Tín của Nhóm Thân Hữu Già Lam bên Úc; đến báo Phật giáo Việt nam của Thầy Thích Mãn Giác, Hoa Kỳ, đến Báo Giao Điểm, đến Thích Đồng Bổn, Danh Tăng Việt nam v.v… đều cùng một “bài bản” đưa tiểu sử sai lệch của Thầy khi nói rằng Thầy Thích Thiện Minh do bị xuất huyết não mà chết. Trong khi sự thật thì Thầy Thích Thiện Minh đã bị tra tấn đến chết trong nhà tù cộng sản.
Thích Đồng Bổn (chủ biên), Danh Tăng Việt nam: “Vì tuổi già sức yếu và bệnh tật, nên Ngài đã thu thần viên tịch tại nơi an trí”. [ * ]. Quái chưa! Nơi an trí là nhà tù, là địa ngục cộng sản. Thế mà đem cụm từ an trí ghép với cụm từ thu thần viên tịch thì quả là dành hết “bốn bồ dốt nát” về mình mà chẳng chừa cho thiên hạ chia phần.
Sư Ông Nhất Hạnh nói sai lệch về cái chết của Thầy Thích Thiện Minh. www.tudanhaingoai.com , Trang nhà của Sư Thích Tín Nghĩa, buôn sóc nầy cũng theo kiểu “bút máu” mà tiếp tay, mớm mồm giúp Nhất Hạnh bố láo khi nói: “Thầy Thiện Minh phải xé áo làm dây để tự tử” (một đại Hoà thượng lãnh đạo Phật giáo như cố Hoà thượng Thích Thiện Minh làm sao có chuyện “tự tử” theo lối cường điệu của Tín Nghĩa mới còn là chú tiểu ngày cố Hoà thượng Thiện Minh lãnh đạo cuộc đấu tranh năm 63 ?!).[ * ] Ai mà còn lạ gì với “Nhất Hạnh, Bố láo như một dòng sông Hạnh – Phượng Mai thôn.[ * ]. Cũng như “Đảng viên cộng sản, HT Trí Quang tự truyện nói láo không ngượng miệng” [ * ]. Thật quả là Nhất Hạnh - Tín Nghĩa “cha truyền con nối” mà.
8. Nhìn lại chân dung toàn cảnh vụ án Thầy Thích Thiện Minh.
Cuộc đối - đáp giữa công an nhà tù Hàm Tân với Thượng tọa Thích Trí Thủ, GHPGVNTN:
Công an … Nhưng cũng xin ông nhớ cho là, dù đã chết thì ông Đỗ Xuân Hàng vẫn là một tù nhân. Chưa có lệnh nào xóa án cho ông ấy cả.
Hòa Thượng Trí Thủ hơi giận:
- Thưa ông, cũng chưa có tòa án nào kết tội ông Đỗ Xuân Hàng cả.
Tên trung tá công an bướng:
- Nhưng ông ấy vẫn bị liệt vào hạng bị tình nghi về chính trị.
Hòa Thượng Trí Thủ gắt:
- Vậy, thưa ông, tình nghi và tù nhân giống nhau?
Tên trung tá công an đứng dậy:
- Vâng, thưa ông, giống nhau.
(chuyện Thầy Thích Thiện Minh, đd)
Trích đoạn cuộc đối đáp trên cho thấy: Nhìn từ phía nhà nước thì Thầy Thiện Minh (Đỗ Xuân Hàng) “bị liệt vào hạng bị tình nghi về chính trị”. Bị tình nghi về chính trị mà trở thành tù nhân! Thôi đúng rồi! Cho nên khi ông nhà nước chỉ tình nghi cả dân miền Nam là quân ngụy có nghĩa là “bị tình nghi về chính trị” cho nên từ Quân, Dân, Cán, Chính miền Nam phải đi tù cải tạo ròng rã mút chỉ cà tha, may mà Dân miền Nam không bị giết hết như hoàn cảnh Thầy Thiện Minh, quả là tụi Vẹm “độ lượng khoan hồng” quá rồi còn gì nữa hỉ.
Dưới vòm trời XHCNVN, “dù đã chết thì ông Đỗ Xuân Hàng vẫn là một tù nhân” mặc dù “chưa có tòa án nào kết tội ông Đỗ Xuân Hàng cả” mà chỉ có ông công an trại tù Hàm Tân, Phan Thiết, người đẻ ra luật, cũng là người kết án mà cũng là người thi hành án, cả 3 quyền: Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp đều nằm trong tay Công an cả, công an trị cả, đây là hiện tượng chỉ có ở Buông - Sóc XHCN mà thôi. Chung quanh vụ án (dù chưa bị tòa kết án cũng đã có mang án rồi) Thích Thiện Minh cho thấy không có nhân chứng, vật chứng, không bị truy tố ra tòa, cũng không có Luật sư biện hộ; nội hàm vụ việc không có gì nguy hiểm nghiêm trọng ngoài việc Thầy Thiện Minh chỉ đơn thuần bày tỏ quan điểm chính kiến. Bày tỏ quan điểm chính kiến mà cũng có tội hay sao? và đưa đến cái chết hay sao? XHCNVN là kẻ làm ra luật mà lại sống ngoài vòng pháp luật và sống trên pháp luật, cũng chính từ đó họ đã gây ra cái chết oan khuất, thương tâm với Thầy Thiện Minh, GHPGVNTN (1978). Ngoài ra còn phải kể đến Vụ án Nguyễn Duy Trinh khai tử Phật giáo ở chiến khu 5(1951) [ * ]; Vụ án 12 vị Tăng ni Thiền viện Dược Sư tỉnh cần thơ (1975); Vụ án cơ sở Từ thiện – xã hội GHPGVNTN Quách Thị Trang, vu vạ đời tư các nhà lãnh đạo Viện Hóa Đạo (1977); Vụ án cướp Giáo sản GHPGVNTN (1975 -1981); Vụ án 25 năm tù với Thượng tọa Thích Thiện Minh (Huỳnh Văn Ba) 1978; Vụ án Thầy Thích Huyền Quang (1982); Vụ án Thầy Thích Quảng Độ (1982); Vụ án chiếm đất Việt nam Quốc Tự bán cho nước ngoài (2008) .
Cũng xin nói thêm, với cả vụ án Linh mục Nguyễn Kim Điền (1988); Vụ án Tu sĩ Võ Văn Bửu (Phật Giáo Hòa Hảo) 2006; cùng những vụ án Cải cách Ruộng đất (1955); Vụ án Cuộc khởi nghĩa Quỳnh Lưu (1956); vụ án Nhân Văn Giai phẩm (1957); Vụ án Xét lại chống đảng (1967); Vụ án đày dân đi kinh tế mới (1976); Vụ án cải tạo tư sản (1977); Vụ án Thuyền nhân Việt nam (1978); Vụ án giết 3,157 dân làng Ba Chúc, Tri Tôn, An Giang (1978); Vụ án Dân oan toàn quốc (1990); Vụ án Nông dân Thái Bình (1991); Vụ án đàn áp sắc tộc Tây Nguyên (2004); Vụ án chống tham nhũng (2005); Vụ án bảo vệ toàn vẹn lảnh thổ Việt nam (2007) … Hơn 30 năm qua (1975-2008) những án oan đưa đến chết chóc, đau thương với GHPGVNTN và Dân tộc, hồ sơ pháp nạn XHCN chất cao như núi, hơn cả tòa nhà chọc trời ở New york nữa.
Tổng quan mà xét thì nhà nước XHCNVN là tội đồ dân tộc và tôn giáo; Là tổ chức khủng bố loài người. Một tổ chức khủng bố như thế thì không đủ tư cách, là bất xứng với tên gọi Phó chủ tịch Ủy ban chống khủng bố Liên Hiệp Quốc; không xứng đáng ngồi ghế Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Nhắc lại quá khứ không phải để nuôi dưỡng hận thù mà là đòi lại sự công bằng cho người bị hại; cũng là nói lên tính nghiêm minh của pháp luật rằng là kẻ chủ mưu gây án thì phải bị đưa ra trước toà án quốc tế để làm sáng tỏ những vụ án oan khuất còn chìm trong tăm tối. “nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác”, cái chết của Thầy Thích Thiện Minh trong ngục tù cộng sản cũng phải được mọi người tư duy như thế. Cho nên, có thẳng thắn giải toả nỗi oan khuất với quá khứ, những oan khiên với dân tộc, thì mới có tư cách nói chuyện xây dựng hiện tại và phát triển tương lại của đất nước. Có giải oan cho người mất thì mới chúc sinh cho người sống và mở đường cho mời gọi (không là tập hợp cũng không là hòa giải) sức mạnh toàn dân theo mô hình “mặt trời mặt trăng cùng sáng, mỗi vẻ có cái chiếu sáng riêng của nó” (mô hình Khương Tăng Hội) để cùng trung hưng dân tộc Việt. Nói theo Hòa thượng Thích Huyền Quang là phải “Sám hối và Chúc sinh toàn quốc” [ * ]
Nhà lãnh tụ Trung Quốc nói: “không sợ Tây xâm chỉ sợ Hán Gian”; Theo góc độ câu nói đó để nhận định về Pháp nạn XHCN ngày nay thì vai trò, sự tác hại của nhóm giáo gian “Bát đại Huề thượng” Xã nghĩa không phải nhỏ và cần phải nhận diện nghiêm túc chân tướng những đối tượng nầy. Bởi vì đầu mối của biến cố pháp nạn GHPGVNTN ngày nay, ngoài nhà nước, nguồn chủ lực Pháp nạn ra thì bên cạnh đó luôn có bàn tay giáo gian cộng hợp mà gây nên tất cả. Liên quan đến cái chết của nhà sư Thích Thiện Minh có bóng dang thấp thoáng của nhà sư Thích Trí Quang, Thích Trí Thủ, Thích Minh Châu, Hoàng Văn Giàu cùng với nhóm “Ban chấp hành Đoàn sinh viên Phật tử Sài gòn”, những người đang “nhởn nhơ” nơi các “trạm trung chuyển” đặc tình hải ngoại mà chùa Việt nam ở Houston, Texas, Hoa Kỳ của Sư Nguyên Hạnh, đồng bọn của Thầy Thích Mãn Giác rồi Thích Nguyên Đạt là một trong những “bãi đáp” kinh tài xã nghĩa. (Câu chuyện chùa Việt nam với Thích Mãn Giác, Châu Văn Thọ, Hoàng Văn Giàu, Thích Nhất Hạnh, sẽ nói vào 1 dịp khác). Chính vì chung quanh vụ án Thích Thiện Minh còn dính liếu đến những tên giáo gian hải ngoại như vừa nói, cho nên từ báo chí Phật giáo thân cộng trong ngoài nước đến nhà nước xã nghĩa, qua ngòi bút giáo gian như Thích Tín Nghĩa, giổ Thầy; Giới Tử, cơn bão trong chén trà; Hoàng Nguyên Nhuận, Phồn hoa kinh; hay kiểu “đánh phá Nhà thờ cầm cờ Phật giáo” của nhóm Giáo Điểm… Đó đều là những loại tung hỏa mù xuyên tạc lịch sử, che lấp sự thật về cái chết của Hòa thượng Thích Thiện Minh khi các báo nầy nói rằng: “Ông Đổ Xuân Hàng (Thích Thiện Minh) do xuất huyết não mà chết”, đó là nói theo chủ đạo của nhà nước xã nghĩa.
Từ “nhận định về những sai lầm tai hại của đảng cộng sản đối với dân tộc và Phật giáo Việt nam [ * ] cho đến một XHCN bệnh hoạn theo kiểu “tình nghi với tù nhân giống nhau”; thì XHCN, Nó chỉ có [thay] đổi mà không thể [cải] sửa được nữa. Đã đến lúc toàn dân: Liên minh Dân tộc, các tôn giáo phải thành lập Ủy Ban Tố Cáo Tội Ác Cộng Sản Với Dân Tộc Và Tôn Gíao, đưa CHXHCNVN ra tòa án Liên Hiệp Quốc để đòi quyền sống cho dân tộc Việt.
Từ Thích Trí Thủ đến Thích Trí Quang đến Hoàng Nguyên Nhuận đến Thích Mãn Giác; Rồi từ Hoàng Nguyên Nhuận liên kết với Nhất Hạnh; từ Nhất Hạnh (đệ tử Thầy Trí Quang) “nối mạng” trở về với Thích Trí Quang với chùm “dây mơ, rễ má” “vòng vo tam quốc” như thế cho thấy Giáo gian với đặc tình cấu kết, đan xen nhau từ trong ngoài nước đánh phá, triệt hạ GHPGVNTN mà từ tháng 08-2007 vừa qua, Bùi Ngọc Đường (Bùi khủng bố), Trần Quang Thuận, Thích Quảng Ba đã cho nã phát pháo đầu tiên trên vòm trời GHPGVNTN. Thế nhưng, qua Giáo Chỉ 09-2007 chúng đã hiện nguyên hình tiếm danh GHPGVNTN theo kiểu “bên vua có chúa”. Cũng từ đó cho thấy mọi biến động phân hóa GHPGVNTN ngày nay đều có mặt nhóm Thân hữu Già lam, Quân sư “quạt mo” Thích Quảng Ba (Úc Châu) cùng tay chân của cặp bài trùng Thích Tuệ Sỹ - Lê Mạnh Thát, hậu duệ của Thầy Thích Trí Thủ dự vào và cao hơn chút nữa đó là bóng dáng của một Phạm [Văn Bông] Thái Sư – Thái thượng Hoàng: Thích Trí Quang, người đã hơn 1 lần thố lộ: “không hề muốn thấy GHPGVNTN với Huyền Quang –Quảng Độ còn tồn tại nữa”.
Chung quanh, bên dưới Trí Quang còn nhiều “tay chân” phò tá cho Phạm Thái Sư, giúp ông thực hiện tham vọng “Hoàng triều cương thổ” trong Phật giáo mà Lê Mạnh Thát (quan võ), Thích Tuệ Sĩ (quan văn) đang ra sức giáo gian phá đạo. Vừa qua, 2004, Tướng tình báo cộng sản Ba Quốc (Đặng Trần Đức) trước khi “về bên nước Mác”, y đã không ngần ngại bạch hóa Hoàng Văn Giàu là tay chân của hắn. Anh Giàu (Hoàng Nguyên nhuận), tên gián điệp cộng sản đã từng ôm chân Thầy Trí Quang, Thầy Thiện Minh mấy mươi năm qua và cái chết của Thầy Thiện Minh,“Anh Giàu” ít nhiều cũng có dự phần.
Cho nên, chỉ khi nào giải mã “trọn gói” Thích Trí Quang là ai thì đám đặc tình xã nghĩa trong ngoài nước sẽ lộ mặt, sinh lộ cho Phật giáo đồ mở ra và pháp nạn XHCN cũng sẽ sang trang. Căn nguyên pháp nạn XHCN ngày nay là ở chỗ đó.
(còn tiếp Phần 2)
Đề Mục Chính
1. Bối cảnh pháp nạn chung quanh cái chết Thầy Thích Thiện Minh
2. Thầy Thích Thiện Minh, Những năm tháng cuối đời.
3. Thầy Trí Quang, Thầy Trí Thủ với cái chết của Thầy Thích Thiện Minh trong cách nhìn tham chiếu.
31. Vai trò Thầy Thích Trí Thủ.
32. Vai trò Thầy Thích Trí Quang.
33. Ông Lê Xuân Thuấn (người cán bộ cộng sản cảnh tỉnh) nói về chết của Hòa thượng Thích Thiện Minh
4. Giáo gian – đặc tình cấu kết với cộng sản đánh phá GHPGVNTN trong cách nhìn tham chiếu.
41. Vai trò Mai Chí Thọ, Bộ trưởng Bộ nội vụ.
42. Vai trò Hoàng văn Giàu.
43. Vai trò Thích Minh Nghị, chùa Long Vĩnh, Sài gòn.
5. Từ vụ án Thích Thiện Minh (1978) đến những biến động phân hóa GHPGVNTN hải ngoại ngày nay (2008) đến “những con bạch tuộc săn mồi dấu mặt”.
6. Phản kháng của GHPGVNTN chung quanh cái chết của Thầy Thích Thiện Minh.
7. Truyền thông Phật giáo quốc doanh xuyên tạc về chết của Hòa thượng Thích Thiện Minh.
8. Nhìn lại chân dung toàn cảnh vụ án Thầy Thích Thiện Minh.
9. phụ lục
Bấm vào đây để đọc tiếp Vụ án Thầy Thích Thiện Minh chết trong ngục tù cộng sản (phần 2)
http://www.tinparis.net/thoisu/2008_08_26_VuAnThayThichThienMinh_2.html
KHI MỘT CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI MỞ CỬA - Chu Chi Nam
Một nhà tư tưởng đã nói : « Khi một chế độ độc tài bắt đầu mở cửa, có nghĩa là nó cũng bắt đầu phá vỡ nền móng mà trên đó nó được xây dựng ; và ngày sụp đổ của nó cũng sẽ tới không xa. » Chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ câu nói trên để trả lới tại sao như vậy, bằng cách rút tỉa kinh nghiệm từ lịch sử hiện đại và tiên đoán tương lai cho những chế độ độc tài còn lại, đặc biệt là Việt Nam và Trung Cộng .
I ) Độc tài là gì ?
Chế độ độc tài là một chế độ chính trị mà trong đó quyền hành, quyền lợi thuộc về một người hay một nhóm người, không có đối lập. Từ đó đưa đến độc tôn, độc quyền, độc lợi, độc thoại và độc hành, có nghĩa là tự tôn mình lên là nhất, không có ai ; quyền hành ở trong tay một người hay một nhóm người ; lợi lộc chỉ dành cho mình và phe nhóm; tự mình nói chuyện với chính mình, không chấp nhận đối thoại ; và hành động một mình. Nguyên tắc chính của độc tài là độc, một mình, không chấp nhận người khác, nhóm khác. Chính vì vậy mà trong chế độ độc tài không có đối lập, không có tự do báo chí, ngôn luận, tự do bầu cử ; nếu có thì chỉ là lừa dối, bịp bợm.
I I ) Tại sao khi độc tài mở cửa lại có nghĩa là phá vỡ nền tảng của mình.
Như vừa nói, nguyên tắc chính, nền tảng của độc tài là độc ; nay mở cửa tức phải công nhận người khác, không còn độc nữa, tức là từ bỏ nguyên tắc, nền tảng mà trên đó chế độ xây dựng.
Thật vậy, khi mở cửa có nghĩa là đã công nhận người khác, đã đối thọai với người khác, buôn bán với người khác, thì không còn độc tôn, độc thoại nữa, không còn cảnh « Mẹ hát, con khen hay « , « Ếch ngồi đáy giếng coi Trời bằng vung « . Bất cứ một chế độ độc tài nào cũng dựa trên 2 cột trụ chính : đó là bộ máy thông tin tuyên truyền bôi bác sự thật, tự tung, tự tác, tự khen mình ; bộ máy công an dọa nạt dân, dọa nạt ngay cả những người đồng chí của mình : « Mày còn theo tao, thì còn có bổng lộc. Nếu không theo thì sẽ bị bỏ tù hay bị thủ tiêu. ». Nay mở cửa, thì không còn cảnh tự mình khen mình nữa, người dân họ có dịp nhìn người khác, họ so sánh, họ nhận ra đâu là sự thật, thì cả bộ máy tuyên truyền bôi bác sự thật sẽ bị sụp đổ. Đó là làm gãy cột trụ thứ nhất của độc tài. Một khi sự thật được phơi bày, người dân họ chỉ trọng sự thật, không còn sợ những kẻ ăn gian nói dối, đàn áp, bắt họ tin những cái gì không có, dối trá. Và một khi sự sợ hãi đổi chiều, tức cột trụ thứ nhì của độc tài cũng bị gãy, thì chế độ sẽ sụp đổ. (1)
Tôi vẫn nghĩ rằng con người có lương tâm, lương tri, chỉ trừ một thiểu số rất ít. Mặc dầu họ bị tuyên truyền nhồi sọ từ khi cắp sách tới trường đi học, đánh lận con đen, tráo trở sự thật ; nhưng cũng có một khi nào đó, lương tâm và lương tri họ trở lại, giúp họ nhìn ra đâu là sự thật, đâu là điều thiện, đâu là điều ác. Và cũng chính nhờ lương tâm, lương tri này, họ đã can đảm đứng lên bên vực sự thật, kết án điều ác. Không ai chối cãi những người như Gorbatchev, Hoàng minh Chính đã là cộng sản. Một người là cựu Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên sô ; một người khác là cựu Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Mác Lê Việt Nam. Cả hai người đều bị học và bị tuyên truyền nhồi sọ ; sau đó chính họ lại đi dạy và tuyên truyền nhồi sọ người khác. Thế mà nhờ lương tâm, lương tri, Gorbatchev đã từ bỏ cộng sản và can đảm tuyên bố : « Tôi đã bỏ hơn nửa cuộc đời đấu tranh cho lý tưởng cộng sản ; nhưng ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và nói láo. » Ông Hoàng minh Chính, thầy của những lãnh đạo cộng sản Việt Nam, thấm nhuần lý thuyết duy vật, thế mà cũng tuyên bố : « Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ biết học những cái gì là xấu xa nhất của 2 đảng đàn anh Trung cộng và Liên Sô. » Cuối đời ông đã từ bỏ chủ ngĩa duy vật, theo chủ nghĩa duy tâm, ông đã xin qui y đạo Phật.
Nhìn vào lịch sử cận đại, chế độ cộng sản độc tài Liên bang sô viết mở cửa, ở đây chúng ta không bàn về lý do tại sao mở cửa, tự mở cửa hay bị bắt buộc mở cửa, chỉ cần biết là từ lúc Mac Donald được phép mở ở Moscou, thanh niên nam nữ Liên sô thích mặc quần Jeans, nghe nhạc Rock, Liên Sô tổ chức Thế Vận hội, Gorbatchev viếng thăm Tòa Thánh, được Đức giáo hoàng tiếp kiến, đến lúc chế độ độc tài này sụp đổ, thời gian cũng không lâu. Rút tỉa kinh nghiệm đó, chúng ta tự cho phép tiên đoán tương lai. Ngày hôm nay Trung Cộng và Việt Nam mở cửa, chúng ta cũng không cần biết vì tự động hay vì bắt buộc. Sự mở cửa này cũng sẽ dẫn đến sự sụp đổ của độc tài Trung Cộng và Việt Nam, lịch sử cận đại cho phép chúng ta tin như vậy ; vì lịch sử nhiều khi lập lại. Nói như vậy không có nghĩa là những nhà đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền Việt Nam và Trung quốc khoanh tay ngồi chờ mà ngược lại cần phải nỗ lực tranh đấu thêm để sớm mang lại Tự do Dân chủ cho đất nước và dân tộc. Ngày nào mà 2 chế độ độc tài đó không còn nữa, thì dân tộc 2 nước mới đỡ khổ.
Ở Việt Nam chúng ta có câu : « Ở nhà nhất mẹ, nhì con ; ra đường chán vạn kẻ còn hơn ta. » Khi một chế độ độc tài mở cửa, tức là họ ra đường, họ cho phép dân ra đường, thì chính trong hàng ngũ của họ, có kẻ còn có lương tâm, lương tri, tự đặt câu hỏi : « Ồ từ trước đến giờ mình tự cao, tự đại, cho mình là nhất, là « Đỉnh cao trí tuệ của loài người tiến bộ «, đó là sai. Có những người còn hơn ta. Từ trước đến giờ những hành động ăn gian, nói dối, đàn áp dân là không đúng, là tội lỗi. » ; những câu hỏi này sẽ làm vỡ nền tảng mà trên đó chế độ độc tài được xây dựng. Đối với người dân, thì khi họ được ra ngoài, được gặp những người khác, họ cũng nhận thấy tất cả những gì mình được học, được nghe từ trước tới nay bởi cơ quan giáo dục và guồng máy tuyên truyền của độc tài đều là sai sự thật. Từ đó họ can đảm đứng lên bênh vực cho sự thật và sự sợ hãi đổi chiều.
Và một khi sự sợ hãi đổi chiều, dân không còn sợ hãi nữa, thì chế độ độc tài sụp đổ. Nó chính là kết quả của tiến trình mở cửa của những chế độ độc tài, mở cửa vì tự động hay vì bị bắt buộc ; đúng như câu nói : « Khi một chế độ độc tài mở cửa, có nghĩa là nó cũng tự bắt đầu phá vỡ nên tảng mà trên đó nó được xây dựng ; và ngày sụp đổ cửa nó cũng không xa. »
Paris ngày 26/08/2008
Chu chi Nam
Xin xem thêm Khi sự sợ hãi đổi chiều, trên : http://perso.orange.fr/chuchinam/
I ) Độc tài là gì ?
Chế độ độc tài là một chế độ chính trị mà trong đó quyền hành, quyền lợi thuộc về một người hay một nhóm người, không có đối lập. Từ đó đưa đến độc tôn, độc quyền, độc lợi, độc thoại và độc hành, có nghĩa là tự tôn mình lên là nhất, không có ai ; quyền hành ở trong tay một người hay một nhóm người ; lợi lộc chỉ dành cho mình và phe nhóm; tự mình nói chuyện với chính mình, không chấp nhận đối thoại ; và hành động một mình. Nguyên tắc chính của độc tài là độc, một mình, không chấp nhận người khác, nhóm khác. Chính vì vậy mà trong chế độ độc tài không có đối lập, không có tự do báo chí, ngôn luận, tự do bầu cử ; nếu có thì chỉ là lừa dối, bịp bợm.
I I ) Tại sao khi độc tài mở cửa lại có nghĩa là phá vỡ nền tảng của mình.
Như vừa nói, nguyên tắc chính, nền tảng của độc tài là độc ; nay mở cửa tức phải công nhận người khác, không còn độc nữa, tức là từ bỏ nguyên tắc, nền tảng mà trên đó chế độ xây dựng.
Thật vậy, khi mở cửa có nghĩa là đã công nhận người khác, đã đối thọai với người khác, buôn bán với người khác, thì không còn độc tôn, độc thoại nữa, không còn cảnh « Mẹ hát, con khen hay « , « Ếch ngồi đáy giếng coi Trời bằng vung « . Bất cứ một chế độ độc tài nào cũng dựa trên 2 cột trụ chính : đó là bộ máy thông tin tuyên truyền bôi bác sự thật, tự tung, tự tác, tự khen mình ; bộ máy công an dọa nạt dân, dọa nạt ngay cả những người đồng chí của mình : « Mày còn theo tao, thì còn có bổng lộc. Nếu không theo thì sẽ bị bỏ tù hay bị thủ tiêu. ». Nay mở cửa, thì không còn cảnh tự mình khen mình nữa, người dân họ có dịp nhìn người khác, họ so sánh, họ nhận ra đâu là sự thật, thì cả bộ máy tuyên truyền bôi bác sự thật sẽ bị sụp đổ. Đó là làm gãy cột trụ thứ nhất của độc tài. Một khi sự thật được phơi bày, người dân họ chỉ trọng sự thật, không còn sợ những kẻ ăn gian nói dối, đàn áp, bắt họ tin những cái gì không có, dối trá. Và một khi sự sợ hãi đổi chiều, tức cột trụ thứ nhì của độc tài cũng bị gãy, thì chế độ sẽ sụp đổ. (1)
Tôi vẫn nghĩ rằng con người có lương tâm, lương tri, chỉ trừ một thiểu số rất ít. Mặc dầu họ bị tuyên truyền nhồi sọ từ khi cắp sách tới trường đi học, đánh lận con đen, tráo trở sự thật ; nhưng cũng có một khi nào đó, lương tâm và lương tri họ trở lại, giúp họ nhìn ra đâu là sự thật, đâu là điều thiện, đâu là điều ác. Và cũng chính nhờ lương tâm, lương tri này, họ đã can đảm đứng lên bên vực sự thật, kết án điều ác. Không ai chối cãi những người như Gorbatchev, Hoàng minh Chính đã là cộng sản. Một người là cựu Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên sô ; một người khác là cựu Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Mác Lê Việt Nam. Cả hai người đều bị học và bị tuyên truyền nhồi sọ ; sau đó chính họ lại đi dạy và tuyên truyền nhồi sọ người khác. Thế mà nhờ lương tâm, lương tri, Gorbatchev đã từ bỏ cộng sản và can đảm tuyên bố : « Tôi đã bỏ hơn nửa cuộc đời đấu tranh cho lý tưởng cộng sản ; nhưng ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và nói láo. » Ông Hoàng minh Chính, thầy của những lãnh đạo cộng sản Việt Nam, thấm nhuần lý thuyết duy vật, thế mà cũng tuyên bố : « Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ biết học những cái gì là xấu xa nhất của 2 đảng đàn anh Trung cộng và Liên Sô. » Cuối đời ông đã từ bỏ chủ ngĩa duy vật, theo chủ nghĩa duy tâm, ông đã xin qui y đạo Phật.
Nhìn vào lịch sử cận đại, chế độ cộng sản độc tài Liên bang sô viết mở cửa, ở đây chúng ta không bàn về lý do tại sao mở cửa, tự mở cửa hay bị bắt buộc mở cửa, chỉ cần biết là từ lúc Mac Donald được phép mở ở Moscou, thanh niên nam nữ Liên sô thích mặc quần Jeans, nghe nhạc Rock, Liên Sô tổ chức Thế Vận hội, Gorbatchev viếng thăm Tòa Thánh, được Đức giáo hoàng tiếp kiến, đến lúc chế độ độc tài này sụp đổ, thời gian cũng không lâu. Rút tỉa kinh nghiệm đó, chúng ta tự cho phép tiên đoán tương lai. Ngày hôm nay Trung Cộng và Việt Nam mở cửa, chúng ta cũng không cần biết vì tự động hay vì bắt buộc. Sự mở cửa này cũng sẽ dẫn đến sự sụp đổ của độc tài Trung Cộng và Việt Nam, lịch sử cận đại cho phép chúng ta tin như vậy ; vì lịch sử nhiều khi lập lại. Nói như vậy không có nghĩa là những nhà đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền Việt Nam và Trung quốc khoanh tay ngồi chờ mà ngược lại cần phải nỗ lực tranh đấu thêm để sớm mang lại Tự do Dân chủ cho đất nước và dân tộc. Ngày nào mà 2 chế độ độc tài đó không còn nữa, thì dân tộc 2 nước mới đỡ khổ.
Ở Việt Nam chúng ta có câu : « Ở nhà nhất mẹ, nhì con ; ra đường chán vạn kẻ còn hơn ta. » Khi một chế độ độc tài mở cửa, tức là họ ra đường, họ cho phép dân ra đường, thì chính trong hàng ngũ của họ, có kẻ còn có lương tâm, lương tri, tự đặt câu hỏi : « Ồ từ trước đến giờ mình tự cao, tự đại, cho mình là nhất, là « Đỉnh cao trí tuệ của loài người tiến bộ «, đó là sai. Có những người còn hơn ta. Từ trước đến giờ những hành động ăn gian, nói dối, đàn áp dân là không đúng, là tội lỗi. » ; những câu hỏi này sẽ làm vỡ nền tảng mà trên đó chế độ độc tài được xây dựng. Đối với người dân, thì khi họ được ra ngoài, được gặp những người khác, họ cũng nhận thấy tất cả những gì mình được học, được nghe từ trước tới nay bởi cơ quan giáo dục và guồng máy tuyên truyền của độc tài đều là sai sự thật. Từ đó họ can đảm đứng lên bênh vực cho sự thật và sự sợ hãi đổi chiều.
Và một khi sự sợ hãi đổi chiều, dân không còn sợ hãi nữa, thì chế độ độc tài sụp đổ. Nó chính là kết quả của tiến trình mở cửa của những chế độ độc tài, mở cửa vì tự động hay vì bị bắt buộc ; đúng như câu nói : « Khi một chế độ độc tài mở cửa, có nghĩa là nó cũng tự bắt đầu phá vỡ nên tảng mà trên đó nó được xây dựng ; và ngày sụp đổ cửa nó cũng không xa. »
Paris ngày 26/08/2008
Chu chi Nam
Xin xem thêm Khi sự sợ hãi đổi chiều, trên : http://perso.orange.fr/chuchinam/
Tuesday, August 26, 2008
SỰ KẾT LIỄU MÙA XUÂN PRAHA [1]
Bài của Klaus Wiegrefe
Ngày 21-8-2008
Permanent Link
Vào thứ Năm này cách đây 40 năm, Liên Xô đã chấm dứt cái gọi là Mùa Xuân Praha [Prague] với một đội quân xe tăng và binh lính xâm lược hùng hậu. Các tài liệu tình báo lưu trữ từ vùng lãnh thổ này đã cho thấy rằng hoạt động quân sự lớn nhất tại Âu châu kể từ năm 1945 đã làm cho phương Tây kinh ngạc.
Khi cuộc xâm lăng qua đi, các giới chức phương Tây đã tỏ ra ngạc nhiên và lúng túng. Trái ngược với mong muốn của mình, họ phải thú nhận việc nguỵ trang che giấu cuộc hành quân của quân đội Khối quân sự Hiệp ước Vác-sa-va [Warsaw] [2] vào Praha đã "thành công," và tốc độ tiến quân của các sư đoàn là "ấn tượng". Cách mà Kremlin điều các đơn vị quân đội ra khỏi vùng phía tây "không mấy ai để ý tới" cũng đáng chú ý. Nói ngắn gọn là địch thủ đã ghi điểm bằng một "chiến thắng về chiến thuật."
Đó là nhận định vào ngày 27 tháng Tám, năm 1968 từ đại bản doanh khối Liên minh Bắc Đại Tây Dương NATO [3]] tại Brussel về "Chiến dịch sông Danube" - một cuộc đàn áp đối với phong trào nổi dậy đã đi vào truyền thuyết với tên gọi Mùa Xuân Praha. Một tuần trước đó, 27 sư đoàn Nga-Sô Viết, Ba Lan, Hungaria và Bulgaria - với khoảng 300.000 người, được trang bị 2.000 đại bác hạng nặng - đã hành quân vào đất nước Tiệp Khắc [Czechoslovakia] nhỏ bé nhằm chấm dứt cuộc thử nghiệm "xã hội chủ nghĩa mang gương mặt con người." Đó là hoạt động quân sự lớn nhất kể từ Đệ Nhị Thế Chiến, và phương Tây đã không kịp đối phó.
Trong mấy tháng liền, những con mắt của thế giới đã đổ dồn về Praha, nơi một nhóm các giới chức bao quanh lãnh tụ Đảng Cộng sản Alexander Ducek đã thách thức những người Sô Viết với các quyền dân sự mới cho Czechoslovakia, những quyền tự do báo chí và các kế hoạch tư nhân hóa. Leonid Brezhenev, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, đã đưa ra một loạt các hành động đe doạ bằng các cuộc diễn tập quân sự trong và quanh Czechslovakia được bắt đầu vào tháng Năm.
Nhưng khi các cuộc diễn tập gia tăng tới mức không thể coi thường, chính phủ các nước Mỹ, Anh và Đức mới có vẻ nhìn hiện tượng này theo một hướng khác, họ phán đoán tình hình qua các tài liệu được gửi tới từ trụ sở NATO tại Brusels, như các hồ sơ mật đã được tờ báo SPIEGEL phát hiện. Theo Ủy ban Quân sự của khối NATO, cơ quan có thẩm quyền nhất về quân sự của các đồng minh, thì đó "không phải chỉ là một ước đoán đơn lẻ" được xử lý để dự báo về cuộc xâm lăng của Liên Xô vào Praha.
Khoảng 7.500 xe tăng đã ầm ầm tiến về hướng Praha, hơn 1.000 chiến đấu cơ đã xuất kích, bao gồm vô số phi cơ vận tải chở theo các toán lính dù đến Brno và các thành phố khác ở Czechoslovakia. Hàng ngàn sĩ quan chỉ huy trong Khối phương Đông đã nhận được các mệnh lệnh hành quân - và không ai tỏ ra để ý, mà trong đó ít nhất không có điệp viên phương Tây nào. Cuộc xâm lăng do Liên Xô cầm đầu được coi như là một trong những thất bại lớn nhất của các cơ quan tình báo phương Tây.
--
'Những bản báo cáo chính xác và kịp thời'
Cơ quan tình báo Mỹ CIA đã bó tay thậm chí trước khi xảy ra cuộc xâm lăng. Theo một bản báo cáo vào giữa tháng Bảy, thì "không có khả năng" để "dự báo trước những tình huống chính xác tạo ra cho ban lãnh đạo Liên Xô lý do can thiệp thô bạo." Cơ quan tình báo Tây Đức có tên là Bundesnachrichtendienst (BND) cũng không hơn gì, các sĩ quan ở đây đã ghi nhận sau đó rằng cái gọi là X-time, tức thời điểm bắt đầu cuộc xâm lăng Praha, đã được phát hiện không phải bởi BND mà cũng không phải từ bất cứ hệ thống tình báo phương Tây nào."
Bất chấp những kết quả theo dõi này từ các điệp viên của mình, người sáng lập cơ quan BND Reinhard Gehlen đã công nhiên khoác lác rằng các thuộc cấp của ông ta vào thời điểm đó đã có được những dự đoán đúng - các bản báo cáo đều "chính xác và hơn hết thảy là không chậm trễ," ông ta nói - và do lời tán dương của ông mà cuộc xâm lăng Praha đã được ghi nhớ một cách giả dối như một mốc son trong lịch sử của cơ quan BND.
Một biểu hiện đặc biệt lúng túng là sau cuộc xâm lăng, các nhân viên tình báo Đức đã khoe khoang họ có "một bức hình chính xác về sự triển khai quân liên quan tới các chiến dịch." Cơ quan BND vào năm 1968 đã tin rằng Quân đội Nhân dân Quốc gia Đông Đức (NVA) đã dính líu vào cuộc chiếm đóng tàn bạo đó. Trên thực tế, Brezhnev đã bãi bỏ việc để cho NVA tham gia vào bất chấp những phản đối từ nhà lãnh đạo Đông Đức Walter Ulbricht. Sư đoàn Bộ binh Cơ giới Số 11, lực lượng mà BND quả quyết là họ đã phát hiện thấy gần thành phố Budweis của Czech, nhưng trên thực tế đã được phái tới bên trong lãnh thổ Đông Đức trong thời gian diễn ra cuộc xâm lăng để yên lặng chờ lệnh.
Trong sự nhận thức muộn màng, không có gì lạ rằng NATO đã học được bài học đầu tiên về cuộc xâm lăng đó từ phương tiện truyền thông. Bài báo đầu đầu tiên của Hãng thông tấn Mỹ AP [Associated Press] đã được phát đi hồi 2 giờ 9 phút sáng ngày 21 tháng Tám, bốn tiếng sau khi cuộc đột kích bắt đầu, và trước vài giờ khi những chiếc chuông báo động reo lên tại Brussels do hệ thống máy điện tín [telex] của đại bản doanh NATO đã bị hỏng. Không một ai để ý vì các nhân viên kỹ thuật trực ban đã đi ngủ.
Sai lầm chồng chất sai lầm: các tài liệu mật cho thấy rằng các đại sứ Liên Xô tại Lodon và Paris đã cho các chính phủ tại đó biết về cuộc xâm lăng ngay trong đêm nó nổ ra. Đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin thậm chí còn thông báo riêng cho Tổng thống Hoa Kỳ Lindon B. Johnson - do Tổng bí thư Liên Xô Brezhnev muốn tránh đem đến cho phương Tây cảm giác rằng cuộc xâm lăng là sự chuẩn bị cho một cuộc tấn công vào Khối Quân sự Bắc Đại Tây Dương NATO.
Ba nhà lãnh đạo lớn đã giữ riêng thông tin này. Trong những lời chỉ trích cho thấy trong vòng 12 giờ đồng hồ, các nhà lãnh đạo khối NATO đã phải dựa vào các tin tức báo chí, đôi lúc họ đã phải than phiền tới mức nổi nóng. Đó là một lời than vãn có lý do chính đáng, bởi vì có thể dễ dàng nhận ra những xung đột trên biên giới giữa Tây Đức và Czechoslovakia. Các đơn vị xâm lược đã siết chặt tức khắc biên giới phía tây của nước này, song tại một vài nơi, xe tăng Liên Xô đã gầm rú trên vùng biên nước Đức - đường giáp ranh giữa đông và tây nước này. Những gì có thể đã xảy ra nếu như một lính Tây Đức bên này đường ranh không làm chủ được tinh thần sẽ là những mất mát đau đớn mà ta hình dung ra được.
Đại sứ Anh tại NATO đã ngượng ngùng xin lỗi, nói rằng nước ông sẽ không bao giờ lặp lại lối xử lý thông tin như thế này nữa.
Sau đó đã nổi lên một vấn đề rằng Liên minh Không quân Chiến thuật Thứ Tư của NATO đã nhận biết được rằng các lính dù của Liên Xô đã được thả xuống Cộng hòa Czech [CSSR]. Tuy nhiên, các sĩ quan trực đã không coi thông tin này như một mối đe doạ đối với khối liên minh và thế là đã không chuyển nó đi.
Những sai lầm này xuất hiện hoàn toàn làm sửng sốt hơn nữa khi sáng tỏ về những tuyên bố thành công ban đầu của cơ quan BND. Cơ quan này đã gửi đi nhiều đầu mối và người cung cấp tin tới Praha trong mùa hè 1968. Nhiệm vụ mà văn phòng BND phụ trách khu vực này giao là báo cáo "tất cả những chi tiết về các động thái quân sự trên các hệ thống xe lửa và đường bộ," dưới mật mã "Nepomuk." Thánh John của xứ Nepomuk là vị thánh hộ mệnh cho xứ Bohemia - và cho những bí mật khi xưng tội.
--
Điệp viên số 007 tại Kremlin
Các điệp viên [Tây] Đức tại Praha cũng muốn có được "cách tiếp cận tới những nhân vật chính trị quan trọng nhất cho tới nhóm đầu não của Dubcek." Và nhiều thông tin trong số này và của những điệp viên khác báo cáo trước cuộc xâm lăng, về sau này, đã chứng tỏ là đúng, ví dụ như các báo cáo về một cuộc họp cấp cao tại Dresden vào tháng Ba năm 1968.
Chủ tịch Dubcek khi đó cũng vừa mới dỡ bỏ hệ thống kiểm duyệt tại Czechoslovakia, và lập tức các quốc gia xã hội chủ nghĩa anh em của ông đã cáo buộc ông dọn đường cho cuộc nổi dậy phản cách mạng. Cơ quan BND đã báo cáo rằng Tổng bí thư Brezhnev đã cảnh báo là"ông sẽ không ngồi chờ và ngắm nhìn sự sụp đổ của hệ thống cộng sản." Nếu như Đảng Cộng sản Czechoslovakia "mất quyền kiểm soát, thì sẽ có một cuộc can thiệp."
Vài tuần sau - vào tháng Năm năm 1968 - cơ quan BND đã đi đến kết luận rằng "những gì người Sô Viết cân nhắc trước ngưỡng cửa của sức chịu đựng hầu như đã đạt tới." Các mối quan hệ trên tinh thần gọi là các đảng anh em giữ Moscow và Praha "phải được miêu tả như một sự đóng băng."
Sự sáng suốt này có thể dễ dàng nhặt ra từ những trang báo trên tờ Pravda [4].
Sau đó, BND quả quyết là họ "đã biết trước việc có một cuộc tấn công quân sự của Moscow vào một số đồng minh trong khối của mình vào giữa tháng Tám năm 1968."
Tuy nhiên, không có tài liệu nào chống đỡ cho lời khẳng định này, và thậm chí nếu như chúng có tồn tại, thì vấn không thể thay đổi được thực tế rằng những phán đoán tỏ ra kém giá trị hơn những kiến thức có được - thứ luôn là mục tiêu của các cơ quan tình báo.
Tuy thế nhưng cho tới giờ cơ quan BND vẫn không chịu phá lệ như CIA. "Theo BND, 'các nhà lãnh đạo CIA' đã tin rằng "sự xem xét tới dư luận thế giới sẽ buộc Liên Xô phải tránh có một cuộc tấn công quân sự." Nhận định này đã hoàn toàn đi chệch mục tiêu.
Điều này đòi hỏi các điệp viên tại Moscow phải nhận thức được rằng Tổng bí thư Brezhnev và các đồng chí của ông đã thực hiện những quyết định cần thiết vào giữa tháng Bảy nhằm nghiền nát phong trào Mùa Xuân Praha nếu như tình hình tại đó không thay đổi. Vào ngày 18 tháng Tám, thời hạn cho
"Chiến dịch sông Danube" đã được ấn định.
Phương Tây đã không có một điệp viên 007 tại Kremlin
Không ai ở phương Tây có thể giải thích về mục đích của các cuộc diễn tập mùa hè khác thường do các nước trong Khối Hiệp ước quân sự Warsaw thực hiện khi đó, hoạt động mà tại đây ai ai cũng biết được. Đó có phải là hành động doạ dẫm đối với những cải cách ở Praha hay không, hay là để chuẩn bị cho một cuộc xâm lăng của Liên Xô? Nếu đó là để chuẩn bụ cho một cuộc xâm lăng thì nó sẽ xảy ra khi nào?
Sự rối loạn như vậy trong tổ chức là một thực tế cuộc sống tại các cơ quan tình báo, giống như cơ quan BND đã thoải mái thú nhận trong một phân tích được thực hiện sau khi sự việc xảy ra: "Chỉ trong tình huống hiếm có nhất của các sự kiện (do có sự trùng hợp ngẫu nhiên?)" cơ quan này mới thành công trong việc "thâm nhập vào bên trong bộ phận đưa ra những quyết định quan trọng nhất của các đối thủ tiềm tàng".
Không có vẻ là đã xuất hiện tác giả của bản báo cáo mà những lời nhận định này đã khơi nên nghi vấn về chính sự tồn tại của các điệp viên của bản thân ông ta trong thời gian Chiến tranh Lạnh.
--
Hiệu đính: Blogger Trần Hoàng
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2008
[1] Mùa Xuân Praha (tiếng Séc: Pražské jaro; tiếng Slovak: Pražská jar) là một phong trào cải cách nhằm mở rộng tự do dân chủ tại Tiệp Khắc vào thời kỳ xã hội chủ nghĩa tại nước này. Giai đoạn này bắt đầu từ ngày 5 tháng 1 năm 1968 khi nhà cải cách Alexander Dubcek lên nắm quyền và kết thúc vào ngày 21 tháng 8 cùng năm khi quân đội Liên Xô và các nước thuộc Khối Warsaw tiến vào chiếm đóng Tiệp Khắc. Những lực lượng quân đội này bắt đầu rút dần khỏi đây từ ngày 16 tháng 10 năm 1968 nhưng vẫn duy trì một lực lượng tại biên giới Tiệp Khắc cho đến tận giữa năm 1987 (wikipedia-VN).
[2] Khối Warszawa là một liên minh gồm 8 nước: Liên Xô, Albania (rút ra năm 1968), Ba Lan, Bulgaria, Đông Đức, Hungary, Romania, Tiệp Khắc, đã ký kết tại Warszawa năm 1955.
Đây là một hiệp ước quân sự do Liên Xô thành lập và chỉ huy nhằm chống đối NATO, do Mỹ đứng đầu, trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh. Trụ sở của khối đặt tại thủ đô Warszawa, ngày nay khối này đã tan rã (wikipedia-VN).
[3] NATO là tên tắt thông dụng của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (tiếng Anh: North Atlantic Treaty Organization; tiếng Pháp: l'Organisation du Traité de l'Atlantique Nord và viết tắt là OTAN), một tổ chức quân sự thành lập năm 1949, ban đầu gồm Hoa Kỳ, Canada và một số nước Tây Âu. Mục đích thành lập của NATO là để ngăn chặn sự phát triển ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản và Liên Xô lúc đó đang trên đà phát triển rất mạnh ở châu Âu có thể gây phương hại đến an ninh của các nước thành viên. Việc thành lập NATO dẫn đến việc các nước cộng sản thành lập khối Warszawa để làm đối trọng. Sự kình địch và chạy đua vũ trang của hai khối quân sự đối địch này là cuộc đối đầu chính của Chiến tranh Lạnh trong nửa cuối thế kỷ 20 (wikipedia).
[4] Pravda: báo Sự Thật của Đảng CS Liên Xô - như báo Nhân Dân ở VN.
SPIEGEL
--------
END OF THE PRAGUE SPRING
Western Spies Were Out in the Cold
By Klaus Wiegrefe
08/21/2008
Forty years ago this Thursday, the Soviet Union ended the so-called Prague Spring with a massive invasion of troops and tanks. Intelligence files from that era show that the largest military operation in Europe since 1945 took the West by surprise.
When it was over, Western officers, awkwardly, seemed surprised. Against their will they had to admit the camouflage hiding the march of Warsaw Pact troops into Prague had been "good," and the speed of their divisions "impressive." The way the Kremlin led units out of the western part of the Soviet Union "unnoticed" was also noteworthy. The enemy, in short, had scored a "tactical victory."
This was the verdict on Aug. 27, 1968 from NATO headquarters in Brussels on "Operation Danube" -- the suppression of the legendary Prague Spring. A week earlier, 27 divisions of Soviet Russians, Poles, Hungarians and Bulgarians -- around 300,000 men, armed with 2,000 heavy cannons -- marched into the small state of Czechoslovakia to end the experiment of "socialism with a human face." It was the largest military operation since the World War II, and the West was caught off guard.
For months, the eyes of the world had been on Prague, where a group of officials around Communist Party chief Alexander Dubcek had challenged the Soviets with new civil rights for Czechoslovakia, new press freedoms and plans for privatization. Leonid Brezhnev, General Secretary of the USSR's Communist Party, ordered a number of threatening military maneuvers in and around Czechoslovakia starting in May.
But when the maneuvers grew serious, the American, British and German governments seemed to look the other way, judging by documents from the NATO archive in Brussels as well as intelligence files seen by SPIEGEL. "Not a single evaluation" managed to predict the Soviet invasion of Prague, according to the NATO Military Committee, the alliance's highest military authority.
About 7,500 tanks droned towards Prague, more than 1,000 planes were launched, including countless transport planes, which brought airborne troops to Brno and other towns in Czechoslovakia. Thousands of officers across the Eastern Bloc received their marching orders -- and no one seemed to notice, at least no Western agent. The Soviet-led invasion counts as one of the greatest failures of Western intelligence.
'Precise and Punctual Reports'
The American CIA capitulated even before the invasion. There was "no possibility" of "predicting the exact circumstances that would give the Soviet leadership cause to violently intervene," according to one report from mid-July. The West German intelligence service, the Bundesnachrichtendienst (BND), did no better; its officers noted afterwards that the so-called X-time, the start of the Prague invasion, was "detected neither by the BND nor by any other western intelligence service."
In spite of these observations by his spies, the founder of the BND, Reinhard Gehlen, boasted openly that his subordinates at the time had made exact predictions -- the reports were "precise and above all punctual," he said -- and it's because of his praise that the Prague invasion has been falsely remembered as a highlight of the BND's history.
Especially embarrassing: After the invasion, German intelligence officials boasted of having "an exact picture of the deployment of forces involved in the operations." The BND believed in 1968 that the East German National People's Army (NVA) was involved in the brutal occupation. In fact, Brezhnev cancelled the NVA's involvement in spite of protests by East German leader Walter Ulbricht. The 11th Motorized Rifle Division, which the BND claimed to have spotted near the Czech town of Budweis, in fact spent the duration of the invasion waiting peacefully inside East Germany.
In hindsight it's no surprise that NATO first learned about the invasion from the media. The first Associated Press report came out on August 21 at 2:09 a.m., four hours after the start of the assault, and it was another hour before alarm bells sounded in Brussels because the teletype machine at NATO headquarters had broken down. No one noticed, because the officer technically on duty had gone to sleep.
Mistake followed upon mistake: Classified documents show that the Soviet ambassadors to London and Paris had inform ed the governments there on the night of the invasion. Soviet ambassador Anatoly Dobrynin even informed US President Lyndon B. Johnson in person -- Brezhnev wanted to avoid giving the West the impression that the invasion was a preparation for an attack on NATO.
The three big powers kept this information to themselves. In those critical 12 hours the NATO military leaders had to rely on press reports, something they complained about furiously. It was a justified lament, because there could easily have been incidents on the border between West Germany and Czechoslovakia. The invading troops immediately secured the country's western border, but in some places Soviet tanks roared up to the German line -- the line between east and west. What might have happened if a West German commander on the other side had lost his nerve is painful to imagine.
The British ambassador to NATO apologized sheepishly, saying his country would never repeat this type of information policy again.
It later emerged that NATO's Fourth Allied Tactical Air Force were aware that Soviet paratroopers had been flown into the CSSR. However, the officers in charge had not considered this a risk to the alliance and so did not pass on the information.
These slip ups appear all the more astounding in light of the BND's initial claims of success. The agency had sent numerous contacts and informants to Prague in the summer of 1968. The order from the BND field office was to report "all details of military movements on the railways and the streets," under the code word "Nepomuk." Saint John of Nepomuk is the patron saint of Bohemia -- and of confessional secrecy.
No 007 in the Kremlin
German agents in Prague also wanted to gain "access to the most important political people up to Dubcek's inner circle." And much of what these and others reported before the invasion had proved correct in hindsight, for example the reports about a summit meeting in Dresden in March 1968.
Dubcek had just lifted censorship in Czechoslovakia, and now his socialist brother countries accused him of paving the way for the counter-revolution. The BND reported that Brezhnev warned him that "he would not stand by and watch the breakdown of the communist system." If the Czechoslovak Communist Party should "lose control, there would be intervention."
A few weeks later -- in May 1968 -- the BND came to the conclusion that "what the Soviets consider the threshold of tolerance has almost been reached." Relations between the so-called brother parties in Moscow and Prague "must be described as icy."
This insight could have been easily gleaned from the pages of Pravda.
Later the BND claimed it had "anticipated that there would be a military attack by Moscow in association with its allies from mid August 1968." There are, however, no documents supporting this claim, and even if they existed, it would still not change the fact that anticipation is less than knowledge -- which is the purpose of the intelligence agencies.
Nevertheless the BND wasn’t so far off track as the CIA. "Leading CIA officials," according to the BND, had believed that "the 'consideration' of world opinion would force the Soviet Union to abstain from a military attack." This was totally off the mark.
It would have required spies in Moscow to realize that Brezhnev and his comrades had made the essential decision in mid-July to crush the Prague Spring if the situation there did not change. On Aug. 18 the date for "Operation Danube" was set.
The West had no 007 in the Kremlin.
No one in the West could explain the purpose of the unusual summer maneuvers by the Warsaw Pact states, which were there for all to see. Was this to intimidate the Prague reformers, or to prepare the Soviets for an invasion? If it was to prepare for an invasion -- when?
This disorganization is a fact of life at intelligence agencies, as the BND freely admitted in a post-factum analysis: "Only in the rarest of cases (coincidences?)" does the agency succeed in "penetrating potential enemies' most important decision-making bodies."
It doesn’t seem to have occurred to the author of the paper that this sentence called into question the very existence of his own agency during the Cold War.
Ngày 21-8-2008
Permanent Link
Vào thứ Năm này cách đây 40 năm, Liên Xô đã chấm dứt cái gọi là Mùa Xuân Praha [Prague] với một đội quân xe tăng và binh lính xâm lược hùng hậu. Các tài liệu tình báo lưu trữ từ vùng lãnh thổ này đã cho thấy rằng hoạt động quân sự lớn nhất tại Âu châu kể từ năm 1945 đã làm cho phương Tây kinh ngạc.
Khi cuộc xâm lăng qua đi, các giới chức phương Tây đã tỏ ra ngạc nhiên và lúng túng. Trái ngược với mong muốn của mình, họ phải thú nhận việc nguỵ trang che giấu cuộc hành quân của quân đội Khối quân sự Hiệp ước Vác-sa-va [Warsaw] [2] vào Praha đã "thành công," và tốc độ tiến quân của các sư đoàn là "ấn tượng". Cách mà Kremlin điều các đơn vị quân đội ra khỏi vùng phía tây "không mấy ai để ý tới" cũng đáng chú ý. Nói ngắn gọn là địch thủ đã ghi điểm bằng một "chiến thắng về chiến thuật."
Đó là nhận định vào ngày 27 tháng Tám, năm 1968 từ đại bản doanh khối Liên minh Bắc Đại Tây Dương NATO [3]] tại Brussel về "Chiến dịch sông Danube" - một cuộc đàn áp đối với phong trào nổi dậy đã đi vào truyền thuyết với tên gọi Mùa Xuân Praha. Một tuần trước đó, 27 sư đoàn Nga-Sô Viết, Ba Lan, Hungaria và Bulgaria - với khoảng 300.000 người, được trang bị 2.000 đại bác hạng nặng - đã hành quân vào đất nước Tiệp Khắc [Czechoslovakia] nhỏ bé nhằm chấm dứt cuộc thử nghiệm "xã hội chủ nghĩa mang gương mặt con người." Đó là hoạt động quân sự lớn nhất kể từ Đệ Nhị Thế Chiến, và phương Tây đã không kịp đối phó.
Trong mấy tháng liền, những con mắt của thế giới đã đổ dồn về Praha, nơi một nhóm các giới chức bao quanh lãnh tụ Đảng Cộng sản Alexander Ducek đã thách thức những người Sô Viết với các quyền dân sự mới cho Czechoslovakia, những quyền tự do báo chí và các kế hoạch tư nhân hóa. Leonid Brezhenev, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, đã đưa ra một loạt các hành động đe doạ bằng các cuộc diễn tập quân sự trong và quanh Czechslovakia được bắt đầu vào tháng Năm.
Nhưng khi các cuộc diễn tập gia tăng tới mức không thể coi thường, chính phủ các nước Mỹ, Anh và Đức mới có vẻ nhìn hiện tượng này theo một hướng khác, họ phán đoán tình hình qua các tài liệu được gửi tới từ trụ sở NATO tại Brusels, như các hồ sơ mật đã được tờ báo SPIEGEL phát hiện. Theo Ủy ban Quân sự của khối NATO, cơ quan có thẩm quyền nhất về quân sự của các đồng minh, thì đó "không phải chỉ là một ước đoán đơn lẻ" được xử lý để dự báo về cuộc xâm lăng của Liên Xô vào Praha.
Khoảng 7.500 xe tăng đã ầm ầm tiến về hướng Praha, hơn 1.000 chiến đấu cơ đã xuất kích, bao gồm vô số phi cơ vận tải chở theo các toán lính dù đến Brno và các thành phố khác ở Czechoslovakia. Hàng ngàn sĩ quan chỉ huy trong Khối phương Đông đã nhận được các mệnh lệnh hành quân - và không ai tỏ ra để ý, mà trong đó ít nhất không có điệp viên phương Tây nào. Cuộc xâm lăng do Liên Xô cầm đầu được coi như là một trong những thất bại lớn nhất của các cơ quan tình báo phương Tây.
--
'Những bản báo cáo chính xác và kịp thời'
Cơ quan tình báo Mỹ CIA đã bó tay thậm chí trước khi xảy ra cuộc xâm lăng. Theo một bản báo cáo vào giữa tháng Bảy, thì "không có khả năng" để "dự báo trước những tình huống chính xác tạo ra cho ban lãnh đạo Liên Xô lý do can thiệp thô bạo." Cơ quan tình báo Tây Đức có tên là Bundesnachrichtendienst (BND) cũng không hơn gì, các sĩ quan ở đây đã ghi nhận sau đó rằng cái gọi là X-time, tức thời điểm bắt đầu cuộc xâm lăng Praha, đã được phát hiện không phải bởi BND mà cũng không phải từ bất cứ hệ thống tình báo phương Tây nào."
Bất chấp những kết quả theo dõi này từ các điệp viên của mình, người sáng lập cơ quan BND Reinhard Gehlen đã công nhiên khoác lác rằng các thuộc cấp của ông ta vào thời điểm đó đã có được những dự đoán đúng - các bản báo cáo đều "chính xác và hơn hết thảy là không chậm trễ," ông ta nói - và do lời tán dương của ông mà cuộc xâm lăng Praha đã được ghi nhớ một cách giả dối như một mốc son trong lịch sử của cơ quan BND.
Một biểu hiện đặc biệt lúng túng là sau cuộc xâm lăng, các nhân viên tình báo Đức đã khoe khoang họ có "một bức hình chính xác về sự triển khai quân liên quan tới các chiến dịch." Cơ quan BND vào năm 1968 đã tin rằng Quân đội Nhân dân Quốc gia Đông Đức (NVA) đã dính líu vào cuộc chiếm đóng tàn bạo đó. Trên thực tế, Brezhnev đã bãi bỏ việc để cho NVA tham gia vào bất chấp những phản đối từ nhà lãnh đạo Đông Đức Walter Ulbricht. Sư đoàn Bộ binh Cơ giới Số 11, lực lượng mà BND quả quyết là họ đã phát hiện thấy gần thành phố Budweis của Czech, nhưng trên thực tế đã được phái tới bên trong lãnh thổ Đông Đức trong thời gian diễn ra cuộc xâm lăng để yên lặng chờ lệnh.
Trong sự nhận thức muộn màng, không có gì lạ rằng NATO đã học được bài học đầu tiên về cuộc xâm lăng đó từ phương tiện truyền thông. Bài báo đầu đầu tiên của Hãng thông tấn Mỹ AP [Associated Press] đã được phát đi hồi 2 giờ 9 phút sáng ngày 21 tháng Tám, bốn tiếng sau khi cuộc đột kích bắt đầu, và trước vài giờ khi những chiếc chuông báo động reo lên tại Brussels do hệ thống máy điện tín [telex] của đại bản doanh NATO đã bị hỏng. Không một ai để ý vì các nhân viên kỹ thuật trực ban đã đi ngủ.
Sai lầm chồng chất sai lầm: các tài liệu mật cho thấy rằng các đại sứ Liên Xô tại Lodon và Paris đã cho các chính phủ tại đó biết về cuộc xâm lăng ngay trong đêm nó nổ ra. Đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin thậm chí còn thông báo riêng cho Tổng thống Hoa Kỳ Lindon B. Johnson - do Tổng bí thư Liên Xô Brezhnev muốn tránh đem đến cho phương Tây cảm giác rằng cuộc xâm lăng là sự chuẩn bị cho một cuộc tấn công vào Khối Quân sự Bắc Đại Tây Dương NATO.
Ba nhà lãnh đạo lớn đã giữ riêng thông tin này. Trong những lời chỉ trích cho thấy trong vòng 12 giờ đồng hồ, các nhà lãnh đạo khối NATO đã phải dựa vào các tin tức báo chí, đôi lúc họ đã phải than phiền tới mức nổi nóng. Đó là một lời than vãn có lý do chính đáng, bởi vì có thể dễ dàng nhận ra những xung đột trên biên giới giữa Tây Đức và Czechoslovakia. Các đơn vị xâm lược đã siết chặt tức khắc biên giới phía tây của nước này, song tại một vài nơi, xe tăng Liên Xô đã gầm rú trên vùng biên nước Đức - đường giáp ranh giữa đông và tây nước này. Những gì có thể đã xảy ra nếu như một lính Tây Đức bên này đường ranh không làm chủ được tinh thần sẽ là những mất mát đau đớn mà ta hình dung ra được.
Đại sứ Anh tại NATO đã ngượng ngùng xin lỗi, nói rằng nước ông sẽ không bao giờ lặp lại lối xử lý thông tin như thế này nữa.
Sau đó đã nổi lên một vấn đề rằng Liên minh Không quân Chiến thuật Thứ Tư của NATO đã nhận biết được rằng các lính dù của Liên Xô đã được thả xuống Cộng hòa Czech [CSSR]. Tuy nhiên, các sĩ quan trực đã không coi thông tin này như một mối đe doạ đối với khối liên minh và thế là đã không chuyển nó đi.
Những sai lầm này xuất hiện hoàn toàn làm sửng sốt hơn nữa khi sáng tỏ về những tuyên bố thành công ban đầu của cơ quan BND. Cơ quan này đã gửi đi nhiều đầu mối và người cung cấp tin tới Praha trong mùa hè 1968. Nhiệm vụ mà văn phòng BND phụ trách khu vực này giao là báo cáo "tất cả những chi tiết về các động thái quân sự trên các hệ thống xe lửa và đường bộ," dưới mật mã "Nepomuk." Thánh John của xứ Nepomuk là vị thánh hộ mệnh cho xứ Bohemia - và cho những bí mật khi xưng tội.
--
Điệp viên số 007 tại Kremlin
Các điệp viên [Tây] Đức tại Praha cũng muốn có được "cách tiếp cận tới những nhân vật chính trị quan trọng nhất cho tới nhóm đầu não của Dubcek." Và nhiều thông tin trong số này và của những điệp viên khác báo cáo trước cuộc xâm lăng, về sau này, đã chứng tỏ là đúng, ví dụ như các báo cáo về một cuộc họp cấp cao tại Dresden vào tháng Ba năm 1968.
Chủ tịch Dubcek khi đó cũng vừa mới dỡ bỏ hệ thống kiểm duyệt tại Czechoslovakia, và lập tức các quốc gia xã hội chủ nghĩa anh em của ông đã cáo buộc ông dọn đường cho cuộc nổi dậy phản cách mạng. Cơ quan BND đã báo cáo rằng Tổng bí thư Brezhnev đã cảnh báo là"ông sẽ không ngồi chờ và ngắm nhìn sự sụp đổ của hệ thống cộng sản." Nếu như Đảng Cộng sản Czechoslovakia "mất quyền kiểm soát, thì sẽ có một cuộc can thiệp."
Vài tuần sau - vào tháng Năm năm 1968 - cơ quan BND đã đi đến kết luận rằng "những gì người Sô Viết cân nhắc trước ngưỡng cửa của sức chịu đựng hầu như đã đạt tới." Các mối quan hệ trên tinh thần gọi là các đảng anh em giữ Moscow và Praha "phải được miêu tả như một sự đóng băng."
Sự sáng suốt này có thể dễ dàng nhặt ra từ những trang báo trên tờ Pravda [4].
Sau đó, BND quả quyết là họ "đã biết trước việc có một cuộc tấn công quân sự của Moscow vào một số đồng minh trong khối của mình vào giữa tháng Tám năm 1968."
Tuy nhiên, không có tài liệu nào chống đỡ cho lời khẳng định này, và thậm chí nếu như chúng có tồn tại, thì vấn không thể thay đổi được thực tế rằng những phán đoán tỏ ra kém giá trị hơn những kiến thức có được - thứ luôn là mục tiêu của các cơ quan tình báo.
Tuy thế nhưng cho tới giờ cơ quan BND vẫn không chịu phá lệ như CIA. "Theo BND, 'các nhà lãnh đạo CIA' đã tin rằng "sự xem xét tới dư luận thế giới sẽ buộc Liên Xô phải tránh có một cuộc tấn công quân sự." Nhận định này đã hoàn toàn đi chệch mục tiêu.
Điều này đòi hỏi các điệp viên tại Moscow phải nhận thức được rằng Tổng bí thư Brezhnev và các đồng chí của ông đã thực hiện những quyết định cần thiết vào giữa tháng Bảy nhằm nghiền nát phong trào Mùa Xuân Praha nếu như tình hình tại đó không thay đổi. Vào ngày 18 tháng Tám, thời hạn cho
"Chiến dịch sông Danube" đã được ấn định.
Phương Tây đã không có một điệp viên 007 tại Kremlin
Không ai ở phương Tây có thể giải thích về mục đích của các cuộc diễn tập mùa hè khác thường do các nước trong Khối Hiệp ước quân sự Warsaw thực hiện khi đó, hoạt động mà tại đây ai ai cũng biết được. Đó có phải là hành động doạ dẫm đối với những cải cách ở Praha hay không, hay là để chuẩn bị cho một cuộc xâm lăng của Liên Xô? Nếu đó là để chuẩn bụ cho một cuộc xâm lăng thì nó sẽ xảy ra khi nào?
Sự rối loạn như vậy trong tổ chức là một thực tế cuộc sống tại các cơ quan tình báo, giống như cơ quan BND đã thoải mái thú nhận trong một phân tích được thực hiện sau khi sự việc xảy ra: "Chỉ trong tình huống hiếm có nhất của các sự kiện (do có sự trùng hợp ngẫu nhiên?)" cơ quan này mới thành công trong việc "thâm nhập vào bên trong bộ phận đưa ra những quyết định quan trọng nhất của các đối thủ tiềm tàng".
Không có vẻ là đã xuất hiện tác giả của bản báo cáo mà những lời nhận định này đã khơi nên nghi vấn về chính sự tồn tại của các điệp viên của bản thân ông ta trong thời gian Chiến tranh Lạnh.
--
Hiệu đính: Blogger Trần Hoàng
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2008
[1] Mùa Xuân Praha (tiếng Séc: Pražské jaro; tiếng Slovak: Pražská jar) là một phong trào cải cách nhằm mở rộng tự do dân chủ tại Tiệp Khắc vào thời kỳ xã hội chủ nghĩa tại nước này. Giai đoạn này bắt đầu từ ngày 5 tháng 1 năm 1968 khi nhà cải cách Alexander Dubcek lên nắm quyền và kết thúc vào ngày 21 tháng 8 cùng năm khi quân đội Liên Xô và các nước thuộc Khối Warsaw tiến vào chiếm đóng Tiệp Khắc. Những lực lượng quân đội này bắt đầu rút dần khỏi đây từ ngày 16 tháng 10 năm 1968 nhưng vẫn duy trì một lực lượng tại biên giới Tiệp Khắc cho đến tận giữa năm 1987 (wikipedia-VN).
[2] Khối Warszawa là một liên minh gồm 8 nước: Liên Xô, Albania (rút ra năm 1968), Ba Lan, Bulgaria, Đông Đức, Hungary, Romania, Tiệp Khắc, đã ký kết tại Warszawa năm 1955.
Đây là một hiệp ước quân sự do Liên Xô thành lập và chỉ huy nhằm chống đối NATO, do Mỹ đứng đầu, trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh. Trụ sở của khối đặt tại thủ đô Warszawa, ngày nay khối này đã tan rã (wikipedia-VN).
[3] NATO là tên tắt thông dụng của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (tiếng Anh: North Atlantic Treaty Organization; tiếng Pháp: l'Organisation du Traité de l'Atlantique Nord và viết tắt là OTAN), một tổ chức quân sự thành lập năm 1949, ban đầu gồm Hoa Kỳ, Canada và một số nước Tây Âu. Mục đích thành lập của NATO là để ngăn chặn sự phát triển ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản và Liên Xô lúc đó đang trên đà phát triển rất mạnh ở châu Âu có thể gây phương hại đến an ninh của các nước thành viên. Việc thành lập NATO dẫn đến việc các nước cộng sản thành lập khối Warszawa để làm đối trọng. Sự kình địch và chạy đua vũ trang của hai khối quân sự đối địch này là cuộc đối đầu chính của Chiến tranh Lạnh trong nửa cuối thế kỷ 20 (wikipedia).
[4] Pravda: báo Sự Thật của Đảng CS Liên Xô - như báo Nhân Dân ở VN.
SPIEGEL
--------
END OF THE PRAGUE SPRING
Western Spies Were Out in the Cold
By Klaus Wiegrefe
08/21/2008
Forty years ago this Thursday, the Soviet Union ended the so-called Prague Spring with a massive invasion of troops and tanks. Intelligence files from that era show that the largest military operation in Europe since 1945 took the West by surprise.
When it was over, Western officers, awkwardly, seemed surprised. Against their will they had to admit the camouflage hiding the march of Warsaw Pact troops into Prague had been "good," and the speed of their divisions "impressive." The way the Kremlin led units out of the western part of the Soviet Union "unnoticed" was also noteworthy. The enemy, in short, had scored a "tactical victory."
This was the verdict on Aug. 27, 1968 from NATO headquarters in Brussels on "Operation Danube" -- the suppression of the legendary Prague Spring. A week earlier, 27 divisions of Soviet Russians, Poles, Hungarians and Bulgarians -- around 300,000 men, armed with 2,000 heavy cannons -- marched into the small state of Czechoslovakia to end the experiment of "socialism with a human face." It was the largest military operation since the World War II, and the West was caught off guard.
For months, the eyes of the world had been on Prague, where a group of officials around Communist Party chief Alexander Dubcek had challenged the Soviets with new civil rights for Czechoslovakia, new press freedoms and plans for privatization. Leonid Brezhnev, General Secretary of the USSR's Communist Party, ordered a number of threatening military maneuvers in and around Czechoslovakia starting in May.
But when the maneuvers grew serious, the American, British and German governments seemed to look the other way, judging by documents from the NATO archive in Brussels as well as intelligence files seen by SPIEGEL. "Not a single evaluation" managed to predict the Soviet invasion of Prague, according to the NATO Military Committee, the alliance's highest military authority.
About 7,500 tanks droned towards Prague, more than 1,000 planes were launched, including countless transport planes, which brought airborne troops to Brno and other towns in Czechoslovakia. Thousands of officers across the Eastern Bloc received their marching orders -- and no one seemed to notice, at least no Western agent. The Soviet-led invasion counts as one of the greatest failures of Western intelligence.
'Precise and Punctual Reports'
The American CIA capitulated even before the invasion. There was "no possibility" of "predicting the exact circumstances that would give the Soviet leadership cause to violently intervene," according to one report from mid-July. The West German intelligence service, the Bundesnachrichtendienst (BND), did no better; its officers noted afterwards that the so-called X-time, the start of the Prague invasion, was "detected neither by the BND nor by any other western intelligence service."
In spite of these observations by his spies, the founder of the BND, Reinhard Gehlen, boasted openly that his subordinates at the time had made exact predictions -- the reports were "precise and above all punctual," he said -- and it's because of his praise that the Prague invasion has been falsely remembered as a highlight of the BND's history.
Especially embarrassing: After the invasion, German intelligence officials boasted of having "an exact picture of the deployment of forces involved in the operations." The BND believed in 1968 that the East German National People's Army (NVA) was involved in the brutal occupation. In fact, Brezhnev cancelled the NVA's involvement in spite of protests by East German leader Walter Ulbricht. The 11th Motorized Rifle Division, which the BND claimed to have spotted near the Czech town of Budweis, in fact spent the duration of the invasion waiting peacefully inside East Germany.
In hindsight it's no surprise that NATO first learned about the invasion from the media. The first Associated Press report came out on August 21 at 2:09 a.m., four hours after the start of the assault, and it was another hour before alarm bells sounded in Brussels because the teletype machine at NATO headquarters had broken down. No one noticed, because the officer technically on duty had gone to sleep.
Mistake followed upon mistake: Classified documents show that the Soviet ambassadors to London and Paris had inform ed the governments there on the night of the invasion. Soviet ambassador Anatoly Dobrynin even informed US President Lyndon B. Johnson in person -- Brezhnev wanted to avoid giving the West the impression that the invasion was a preparation for an attack on NATO.
The three big powers kept this information to themselves. In those critical 12 hours the NATO military leaders had to rely on press reports, something they complained about furiously. It was a justified lament, because there could easily have been incidents on the border between West Germany and Czechoslovakia. The invading troops immediately secured the country's western border, but in some places Soviet tanks roared up to the German line -- the line between east and west. What might have happened if a West German commander on the other side had lost his nerve is painful to imagine.
The British ambassador to NATO apologized sheepishly, saying his country would never repeat this type of information policy again.
It later emerged that NATO's Fourth Allied Tactical Air Force were aware that Soviet paratroopers had been flown into the CSSR. However, the officers in charge had not considered this a risk to the alliance and so did not pass on the information.
These slip ups appear all the more astounding in light of the BND's initial claims of success. The agency had sent numerous contacts and informants to Prague in the summer of 1968. The order from the BND field office was to report "all details of military movements on the railways and the streets," under the code word "Nepomuk." Saint John of Nepomuk is the patron saint of Bohemia -- and of confessional secrecy.
No 007 in the Kremlin
German agents in Prague also wanted to gain "access to the most important political people up to Dubcek's inner circle." And much of what these and others reported before the invasion had proved correct in hindsight, for example the reports about a summit meeting in Dresden in March 1968.
Dubcek had just lifted censorship in Czechoslovakia, and now his socialist brother countries accused him of paving the way for the counter-revolution. The BND reported that Brezhnev warned him that "he would not stand by and watch the breakdown of the communist system." If the Czechoslovak Communist Party should "lose control, there would be intervention."
A few weeks later -- in May 1968 -- the BND came to the conclusion that "what the Soviets consider the threshold of tolerance has almost been reached." Relations between the so-called brother parties in Moscow and Prague "must be described as icy."
This insight could have been easily gleaned from the pages of Pravda.
Later the BND claimed it had "anticipated that there would be a military attack by Moscow in association with its allies from mid August 1968." There are, however, no documents supporting this claim, and even if they existed, it would still not change the fact that anticipation is less than knowledge -- which is the purpose of the intelligence agencies.
Nevertheless the BND wasn’t so far off track as the CIA. "Leading CIA officials," according to the BND, had believed that "the 'consideration' of world opinion would force the Soviet Union to abstain from a military attack." This was totally off the mark.
It would have required spies in Moscow to realize that Brezhnev and his comrades had made the essential decision in mid-July to crush the Prague Spring if the situation there did not change. On Aug. 18 the date for "Operation Danube" was set.
The West had no 007 in the Kremlin.
No one in the West could explain the purpose of the unusual summer maneuvers by the Warsaw Pact states, which were there for all to see. Was this to intimidate the Prague reformers, or to prepare the Soviets for an invasion? If it was to prepare for an invasion -- when?
This disorganization is a fact of life at intelligence agencies, as the BND freely admitted in a post-factum analysis: "Only in the rarest of cases (coincidences?)" does the agency succeed in "penetrating potential enemies' most important decision-making bodies."
It doesn’t seem to have occurred to the author of the paper that this sentence called into question the very existence of his own agency during the Cold War.
Subscribe to:
Posts (Atom)