Saturday, September 20, 2008

14-9-1958 Phạm Văn Ðồng theo lệnh Hồ Chí Minh ký công hàm bán Hoàng Sa-Trường Sa và Biển Ðông cho Tàu đỏ

Mường Giang

Phạm Văn Ðồng theo lệnh Hồ Chí Minh
ký công hàm bán Hoàng Sa-Trường Sa và Biển Ðông cho Tàu đỏ

Trước khi Christophe Colomb tìm được Tân Thế Giới (Châu Mỹ) thì một số quốc gia hùng mạnh tại Châu Âu thời đó như Anh, Pháp, Hòa Lan, Y Pha Nho, Bồ Ðào Nha.. đã tự giành cho mình quyền lực vạn năng trên biển cả. Mãi tới năm 1609 sau Tây lịch (STL), một luật sư người Hòa Lan tên Grotius mới đưa ra những nguyên tắc căn bản gọi là 'Luật Biển' được một số nước chấp nhận, mỡ đầu cho sự ra đời của Luật Hàng Hải.

Nhưng đại dương không phải chỉ dành cho tàu bè lưu thông đây đó, mà nó còn là một kho tàng vô tận chứa đủ các loại tài nguyên trong đó quan trọng nhất vẫn là dầu lửa và khí đốt dưới đáy biển, làm cho bất cứ quốc gia nào cũng thèm thuồng ham muốn chiếm cho bằng được.

Ðó là lý do dẫn tới các hội nghị La Haye năm 1930, Genève năm 1958 và 1960, New York năm 1973 và Caracas (Venezuela) năm 1973 để tìm kiếm các biện pháp thích ứng với mọi quốc gia trên thế giới về quyền lợi cũng như an ninh lãnh thổ của họ. Nhờ vậy ngày nay mới có các qui định về : LÃNH HẢI tức vùng biển tiếp liền với bờ biển của nước ven biển có một diện tích nhất định thuộc chủ quyền của nước đó. VÙNG TIẾP GIÁP nằm ngoài lãnh hải vì sự qui định lãnh hải chưa bảo đãm được an ninh cho các nước ven biển. THỀM LỤC ÐỊA chỉ phần đất nằm dưới đáy biển, từ bờ ra tới vùng nước có độ sâu 200m, được qui định thuộc chủ quyền của nước ven biển. EO BIỂN QUỐC TẾ chẳng hạn như Hồng Hải, Hắc Hải.. Cuối cùng là BIỂN CẢ hay còn gọi là Hải Phận Quốc Tế là phần biển không thuộc vào chủ quyền của một quốc gia nào nên ai cũng có quyền sử dụng kể cả không phận.

Về QUYỀN ÐÁNH CÁ được căn cứ theo Công Ước đã ký tại Genève 1958, trong đó có điều luật cấm Ðánh Cá Voi cũng như các qui định bảo đãm quyền lợi và vấn đề an ninh lãnh thổ cho các nước ven biển.. Tuy nhiên mãi tới nay vẫn còn nhiều tranh cải về Lãnh Hải như tại hội nghị Genève 1958. Trong lúc Liên Xô và khối Ðông Âu đề nghị chiều rộng của Lãnh Hải từ 3-12 hải lý, còn Hoa kỳ và Canada thì cho rằng rộng quá không thể kiểm soát được bờ biển, nên chỉ muốn từ 3-6 hải lý.

Năm 1973 tại hội nghị Caracas (Venezuela) lại có một số nước Phi Châu và Nam Mỹ muốn nâng lãnh hải nước mình rộng tới 200 hải lý. Dĩ nhiên đề nghị này chẳng bao giờ được ai chấp thuận. Do đó tới nay mạnh ai theo nấy nên chưa thống nhất được chiều rộng qui định dành cho lãnh hải các nước ven biển nhưng ai lo phận náy kể cả quốc gia mạnh nhất trên đại dương hiện nay là Hoa Kỳ.. ngoại trừ Trung Cộng muốn làm gì thì làm trên Biển Ðông từ mấy năm qua.

Ngày 21-7-1954 các văn kiện của hiệp định ngưng bắn tại Ðông Dương được ký kết ở Genève (Thụy Sĩ) , đã qui định giới tuyến 17 trên sông Bến Hải thuộc tỉnh Quảng Trị là ranh giới tạm thời phân chía hai nước VN : phía bắc là VNDCCH và phía nam là VNCH. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo hiệp định Genève thuộc lãnh thổ và chủ quyền của Miền Nam VN lúc đó, vậy Phạm Văn Ðồng lấy tư cách pháp lý nào để tự ý ký Công Hàm xác nhận đó là đất đai của giặc Tàu?

Theo tin tức từ trong nước cho biết sứ quán Trung Công sau cái màn hù dọa trên Net sẽ làm cỏ VN suốt tháng qua, nay lại tới phiên cho biết vào ngày 14-9-2008 sẽ họp báo tại Hà Nội để tuyên bố công hàm bán nước của Việt gian Phạm Văn Ðồng có liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Ðông. Trước nổi ô nhục này đã khiến cho người Việt trong và ngoài nước căm phẩn bọn ngụy quyền tại Bắc Bộ Phủ cũng như giặc Tàu Ðỏ xâm lăng, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc.

Tuổi trẻ VN ngày nay đã trưởng thành dù họ đang sống ở hải ngoại ăn sung mặc sướng đầy rẩy tương lai hay đa số cam chịu một cuộc sống cơ hàn đói cơm rách áo trong nước. Tất cả ngày nay đã biết nghĩ tới lý tưởng Quốc Gia và yêu nước là yêu nước VN ngàn đời của Tổ tiên Hồng Lạc, chứ không phải nước Xã Hội Chủ Nghĩa mà tập đoàn việt gian Hồ Chí Minh từ trước tới nay mang từ Nga-Tàu về dầy xéo quê hương đất nước. Thanh niên muôn đời là rường cột của non sông dân tộc. Cao quí thay về những hy sinh đóng góp của lớp người tuổi trẻ hôm nay, làm ấm lòng lớp cha anh đi trước. Tháng 6-2008 thanh niên VN khắp mọi nẻo đường thế giới, kéo về Úc Châu dựng lại ngọn cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ, môt biểu tượng thân thương của tình Dân Tộc Việt.. làm ngay Ðức Giáo Hoàng cũng phải cảm động về tấm lòng tha thiết đối với quê hương mình, của tầng lớp tuổi trẻ Nước Việt hôm nay.

Nên chắc chắc ngày 14-9-2008 thanh niên VN từ mọi nơi trong và ngoài nước sẽ làm vỡ mật giặc Tàu, trước khí phách dân tộc Việt đang sôi sục lòng yêu nước chống xâm lăng.

Tháng 7-1954, ngay khi chữ ký trên văn bản ngưng bắn tại Genève, chưa ráo mực, thì Hồ Chí Minh đã nghĩ ngay tới chuyện chiếm miền Nam. Do ý đồ trên, Hồ đã gài lại một số lớn cán binh bộ đội nằm vùng khắp lãnh thổ VNCH, khi có lệnh tập kết. Ðể chuyển quân cũng như tiếp tế, Hồ mở con đường chiến lược Trường Sơn trên bộ, xuyên qua lãnh thổ Lào và Kampuchia . Về mặt biển, Hồ thành lập đường 559B giao cho Ðồng văn Cống chỉ huy và đầu tiên là phải tiêu diệt hai tiền đồn của QLVNCH trấn đóng trên quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa nằm trong Ðông Hải, vốn là đất đai thuộc lãnh thổ lâu đời của dân tộc Ðại Việt, đã được tổ tiên bảo toàn từ thời Hậu Lê tới Nhà Nguyễn (1802-1945) và tiếp tục thời VNCH.

Theo bản tin của UPI-AFB ngày 23-9-1958 cho biết thủ tướng Bắc Việt lúc đó là Phạm Văn Ðồng, vào ngày 14-9-1958 đã ký văn kiện có phê chuẩn của chủ tịch nước HCM xác quyết rằng : ‘Chính phủ VNDCCH, tôn trọng quyết định, lãnh hải 12 hải lý cũng như hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, chính là hai đảo Tây Sa-Nam Sa của Trung Hoa đã có từ lâu đời’. Tiếp theo ngày 22-9-1958 đại sứ VC tại Bắc Kinh là Nguyễn Khang, lại dâng văn kiện xác nhận điều trên do Phạm Văn Ðồng ký, lên thiên triều.

Tháng 5-1976, trên tờ Sài Gòn Giải Phóng của Ngô Công Ðức, Lý Quý Chung.. vẫn còn đăng lời xác nhận của CSVN rằng ‘Hoàng Sa-Trường Sa là của Trung Cộng’. Khôi hài hơn báo trên còn viết tiếp 'vì ta và Tàu sông liền sông núi dính núi, nên Hoàng Sa-Trường Sa của ai cũng thế thôi, nên nếu VN muốn lấy lại đảo lúc nào, Bắc Kinh cũng sẵn sàng giao trả' Nhưng có lẽ bi thảm nhất vào ngày 14-3-1988, Hải quân VN đã bị thiệt hại nặng nề khi giao tranh đẳm máu với Tàu đỏ tại Trường Sa. để bảo vệ số đảo còn lại của nước ta từ sau ngày 30-4-1975. Ngay sau đó, trên tờ Nhân Dân số ra ngày 26-4-1988, Hà Nội đã không dám tố cáo sự kiện lịch sử này trước công luận quốc tế, ngược lại vẫn ngoan cố bao che cho tội bán nước của Hồ Chí Minh năm 1958 là đúng. Bởi có vậy, Trung Cộng mới viện trợ súng đạn, gạo tiền và cả triệu quân, để CS Bắc Việt có phương tiện và hậu thuẩn đánh chiếm VNCH từ 1955-1975.

Gần một thế kỷ bị Pháp đô hộ (1884 - 1954), thực dân đã độc quyền ký kết nhiều hiệp ước song phương cũng như các công ước quốc tế, về luật biển, hải đảo và biên giới giữa các nước. Năm 1885, Pháp ký với Mãn Thanh hiệp ước Thiên Tân, phân định lại đường ranh giới bằng cọc cắm và bản đồ. Năm 1887, Pháp và Trung Hoa lại ký Hiệp Ước Brévié, phân ranh vùng Vình Bắc Phần, từ Trà Cổ (Móng Cáy), dọc kinh tuyến Ðông 108. Theo đó, phía tây đảo Bạch Long Vĩ là lãnh hải của VN, phía đông là của Trung Hoa. Về sự tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa, cũng được quốc tế giải quyết năm 1882 dựa theo công ước luật biển. Tháng 11-1993, công ước trên được LHQ phê chuẩn và thi hành vào năm 1994, với 170 quốc gia công nhận trong đó có Trung Cộng và VN.

Từ sau ngày 30-4-1975 chiếm được cả nước, nên CSVN lúc nào cũng rêu rao khoác lác về độc lập tự do, vẹn toàn lãnh thổ. Thế nhưng mọi sự đã lộ nguyên hình, khi thành tích bán nước cho Tàu, phản bội quê hương bị toàn dân trong và ngoài nước phanh phui. Nhờ đó, mọi người mới biết trong năm 1999 và 2000, Ðổ Mười, Lê Khả Phiêu, Võ Văn Kiệt, Nông Ðức Mạnh, Trần Ðức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Mạnh Cầm và hầu hết Chính trị Bộ, đã lén lút, ký kết 2 Hiệp Ước bất bình thường, vô lý, phản bội dân tộc, trong sự Bán Ðất Biên giới và Bán Vịnh Bắc Phần, cho giặc Tàu.

Tóm lại, tất cả những ký kết điều hoàn toàn sai trái về pháp lý quốc tế và đạo lý dân tộc, đi ngược lại truyền thống hòa bình, tự chủ, không lấy thịt đè người của bản tuyên ngôn nhân quyền. Tất cả đều là những âm mưu xâm lăng, hay nói đúng hơn chính Hồ Chí Minh và CSVN đã rước voi Tàu về dầy mã Việt, ngay từ khi bắt đầu nhận viện trợ của Trung Cộng năm 1950 cho tới cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2 (1960-1975) chấm dứt. Trung Cộng lợi dụng quân viện và nhất là trong cuộc chiến biên giới năm 1979 giữa Việt-Trung, đã xua hàng triệu dân Tàu gốc thiểu số tại các tỉnh biên giới, lấn đất dành dân, sâu trong nội địa VN. Theo báo chí ngoại quốc, VC đã bán cho Trung Cộng tại biên giới Việt Hoa, hơn 15.600 km2 và 20.000 km2 lãnh hải trong vịnh Bắc Phần. Như vậy tại Miền Bắc, ngày nay VN đã mất hẳn những địa danh hồn thiêng sông núi như Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, và Ðồng Ðăng với Phố Kỳ Lừa

Từ năm 1930 tới nay chỉ vì lợi lộc cá nhân và đảng hệ, mà đảng CS đã cõng voi về đầy xéo đất nước, làm cho voi quen đường, chẳng những lấn đất dành biển, mà còn ngổ ngáo sử dụng một mình một chợ thượng nguồn các con sông thiêng của VN, từ sông Hồng, sông Ðà, Lô, Thái Bình ở Bắc Phần cho tới sông Cửu Long tại miền Nam. Thảm kịch trên làm cho nước ta, bao chục năm qua chịu không biết bao nhiêu thiên tai bảo lụt, gây thiệt hại mùa màng tật bệnh, vì những chất độc hại của Tàu đổ xuống các dòng sông, theo nước xuống tận đồng bằng sông Hồng, sông Cửu trước khi ra biển.

Dân chúng VN bao đời sống nhờ biển cá, CS ngày nay đem biển bán cho giặc Tàu, khiến cho nguồn lợi thủy sản bị hao hụt trầm trọng, tài nguyên dưới đáy biển bao đời, nay thuộc về ngoại bang. Tháng 1-2005, ngư dân tỉnh Thanh Hóa hành nghề trong Vịnh Bắc Việt , đã bị lực lượng quân sự của Trung Cộng bắn giết một cách tàn nhẫn tận tuyệt, bất chấp lòng nhân đạo và luật lệ của quốc tế. Thảm kịch đau lòng tủi nhục trên làm cho cả nước, ai cũng rớt nước mắt vì thường đồng bào mình. Tiếp theo là việc Trung Cộng khai thác dầu hỏa trong vùng lảnh hải và thềm lục địa của VN, cố tình gây nạn tràn dầu, ô nhiễm chất phế thải, khiến cho đồng bào dọc miền duyên hải, từ bắc vào nam gánh chịu. Ðó là chưa nói tới, ngư dân VN hàng ngày bị Tàu cấm hành nghề , vì biển cũ đả bị đảng bán cho giặc, vịnh Bắc Việt trở thành Vịnh Hải Nam của người Tàu.

Ngày nay sau 33 năm chiến tranh chấm dứt nhưng nhìn lại thực trang VN, một nước không nhỏ ở Ðông Nam Á, với dân số hơn 80 triệu người, có nhiều tiềm năng kinh tế như hải sản, lúa gạo, dầu khí và khối nhân lực trẻ trung, thông minh.. không thua một nước nào trong vùng. Thế nhưng tới giờ đất nước vẫn nghèo đói, xã hội suy đồi , thân phận người phụ nữ VN bị hạ thấp đọa đầy giữa vũng bùn ô nhục nhất thế giới.

Tất cả thảm trạng trên từ đầu tới cuối đều có tương quan nhân quả vơi đảng CSVN qua vai trò lảnh đạo đất nước bằng thể chế độc tài thối nát, quan chức tham nhũng, già nua cuồng tín, đạo đức suy đồi nhưng đam mê quyền năng, tham vọng bè phái, trình độ thoái hoá.. càng lúc càng đi ngược dòng, qua 7 kỳ đại hội trung ướng đảng từ 1976-2008. Ðối với nhân loại, chủ nghĩa cộng sản được coi như cội nguồn mọi tội ác trên đời nhưng Việt Cộng vẫn tiếp tục tôn sùng Lê-Mác, trong khi đó chính người Nga đã vứt tượng lẫn chế độ Sô Viết vào thùng rác.

Tìm đường vào lịch sử VN cận đại sau bức màn đỏ tại bắc bộ phủ, thực tế sẽ làm cho mọi nguời khựng điếng khi đối diện với một tâp đoàn tự xưng là lãnh đạo đất nước từ trước tới nay, mặt thật chỉ là một lũ âm tướng hung thần, kết phe tụ đảng, võng lọng lạy bái lẫn nhau. Chúng kiên định quyết tâm tiến lên xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đâu tranh với các tư tưởng đa nguyên chính trị, không để hình thành tổ chức chính trị đối lập nào. Cuối cùng là ‘ Trung Quốc vĩ đại đối với chúng ta, không chỉ là người đồng chí mà còn là người thầy tín cẩn đã cưu mang chúng ta nhiệt tình, để chúng ta có được ngày hôm nay thì ‘CHỦ QUYỀN HOÀNG SA THUỘC TRUNG QUỐC HAY THUỘC TA CŨNG VẬY THÔI’ (???).


Bao chục năm qua, mặc cho hàng trăm ngàn sinh mạng của đồng bào trôi vào miệng cá trên đường tìm tự do, mặc cho hàng trăm ngàn sinh mệnh của quân công cán cảnh VNCH bị đầy đọa chết thảm trong tù ngục, mặc cho triệu triệu người dân cả nước sống lầm than đói lạnh vì chính sách bạo tàn, mặc cho hàng trăm ngàn thiếu nữ khắp nước bị xô đẩy vào xó đời nhục hận vì vũng bùn XHCN. Ðảng vẫn cứ coi ‘ quê hương là chùm khế ngọt ‘ để tận lực sử dụng như một công cu riêng, phụng sự cho quyền năng của chúng được mãi mãi trường tồn. Tóm lại ‘Tổ quốc quê hương, tình đồng bào ruột thịt’ mà đảng có trách nhiệm duy nhât và lớn lao tự nguyện gánh vác THỰC CHẤT chỉ lợi dụng ÐỂ TRIỄN DƯƠNG Ý THỨC HỆ XHCN, chứ không bao giờ tạo sự ỔN ÐỊNH HẠNH PHÚC VÀ THĂNG TIẾN cho dất nước và dân tộc VN.

Cho tới cuối thế kỷ XX quyền cai tri VN vẫn nằm trong một vài tên lãnh đạo CS già nua trong Bộ chính trị có từ thời chiến cuộc Ðông Dương lần thứ 2 như HCM, Lê Duẩn, Phạm Văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Ðức Thọ, Trường Chinh.. và chia làm 2 phe theo Nga hay Tàu Ðỏ. Năm 1967 Khruschev bị hạ bệ tại Liên Xô, phe Lê Duẩn-Lê Ðức Thọ lúc đó đang theo Mao, đã lợi dụng thời cơ, tạo ra vụ án xét lại để triệt hạ gần như toàn bộ vây cánh của Võ Nguyên Giáp (theo Nga). Chính cá nhân HCM cũng bị Lê Duẩn lấn quyền nên chỉ còn biết an phận để được làm 'bác' trên giấy tờ, còn Giáp thì gần như mất hết chức vụ khi HCM chết năm 1969.

Sau ngày 30-4-1975 cưởng chiếm được VNCH và làm chủ cả nước, thế lực của Duẩn-Thọ càng mạnh với nhiều vây cánh bao trùm Bộ Chính trị và quân đội, trong kỳ đại hội đảng lần thứ 4 (1976) . Nghị quyết của đảng lần này là ‘ nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể nhân dân lao động.. ’ ’ để đảng kiểm soát cả nước bằng bộ máy công an, từ trung ương đến tận tổ dân phố, qua các biện pháp như sổ hộ khấu, phiếu mua lương thực, giấy thông hành.. nhưng biện pháp hữu hiệu nhất của chế độ là ‘ tố cáo lẫn nhau ‘ để được lập công cho đảng, cho phẩm chất đạo đức cách mạng. Giai đoạn này Lê Duẩn theo Nga nên thẳng tay thanh trừng phe theo Trung Cộng như Hoàng Văn Hoan, Chu Văn Tấn, Lê Quảng Ba.. Hậu quả gây nên cuộc chiến biên giới giữa Việt-Miên và Tàu đỏ (1977-1979). Tất cả chính sách ngu muội trên đã đưa cả nước vào cảnh lầm than đói bệnh vì kinh tế kiệt quệ.

Ðể nịnh bợ cũng như làm vừa lòng chủ mới, CSVN vào năm 1985 cho dựng tương Lê Nin cao 5m tại Hà Nội, còn việc nuớc thì hoàn toàn rập theo khuôn mẫu Liên Xô. Về hiến pháp, bỏ câu mở đầu trước đây mượn từ miệng Mao Trạch Ðông, đồng thời thêm vào cuốn Ðiều Lệ Ðảng ‘Trung Quốc là kẻ thù lâu đời và nguy hiểm nhất' .Trong bản tu chính Hiến pháp cũng ghi ‘ Vừa trải qua 30 năm chiến tranh giải phóng, đồng bào ta thiết tha mong muốn có hòa bình để xây dựng tổ quốc nhưng lại phải đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng tại Kampuchia ‘.Ngoài ra còn gọi sự kiện theo Nga là 'Hòn đá tảng' .Trong khi đó chính ông chủ Nga là Brezhnev đã từ lâu đi đêm với Trung Cộng, Hoa Kỳ lẫn khối ASEAN để giao dịch kinh tế, chính trị, hậu thuẩn.

Những năm đó VN đói khổ triền miên vì chính sách kinh tế quốc doanh định hướng theo XHCN. Tại Nga năm 1982 Brezhnev chết, Andropov và Chermenko kế vị cũng không giải quyết được sự suy sụp của đế quốc Liên Xô sắp tói. Tháng 3-1985 Gorbachev lên nắm quyền, phải cứu đảng cứu nước bằng chính sách Cởi Trói (Glasnov) và Tái Cấu Trúc (Perestroika) . Quan trọng nhất là Nga chịu hòa hoản cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ để sinh tồn.

Trước sự kiện sắp bị Nga ruồng bỏ, đảng CSVN lại Nghị Quyết vào ngày 13-8-1986 rằng ‘đảng ta ngợi ca sự hợp tác toàn diện Việt-Xô nhưng cả hai nước sẳn sàng bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Trung Quốc’. Mặc cho VC nói gì thì nói, TC cứ tiếp tục cuộc chiến biên giới giữa hai nước, kéo dài từ 1979 tới nay, chiếm nhiều đất đai của ta trong đó có núi Faka và Núi Ðất thuộc tỉnh Hà Giang.

Tại đại hội đảng lần thứ VI (1986-1991), qua bài diễn văn của Gorbachev tại Vladivostok (Hải Sâm Uy) ngày 28-7-1986, công bố chính sách mới của Nga tại Châu Á Thái Bình Dương, trong đó mục đích chính là ‘lập lại quan hệ ngoại giao bình thường với Trung Cộng’. Ðó là lý do CSVN cũng 'Ðổi Mới Tư Duy, Bỏ Nga Quay Lại Thần Phục Tàu Ðỏ' . Kỳ này Nguyễn Van Linh làm tổng bí thư, nhưng Trung Cộng ở phía bắc vẫn tiếp tục đánh phá biên giới .

Năm 1989 liên tiếp từ Ba Lan, Tiệp Khắc tới Hung Gia Lợi đều từ bỏ thiên đàng xã nghĩa. Ngày 9-11-1989 bưc tường ô nhục Bá Linh bị giựt xập, nước Ðức thống nhất, đồng lúc vợ chồng bạo chúa Ceauscescu của Lổ Mã Ni bị dân chúng và quân đội treo cổ. Tin tức xấu về thế giới cộng sản dồn dập từng giờ, khiến cho bọn chóp bu lãnh đạo đảng hoảng hốt lo sợ tới số phận của mình, trước biển tội ác đã gây ra cho đất nước và dân tộc Việt suốt bao chục năm qua. Ngày 10-4-1990 CSVN họp để công bố NHU CẦU CẤP BÁCH BẰNG MỌI GIÁ PHẢI LIÊN KẾT VỚi TRUNG CỘNG ÐỂ BẢO VỆ XHCN. Trong khi đó cả nước ai cũng biết Trung Cộng từ trước tới nay chỉ biết có lợi ích của chúng chứ không phải vì XHCN. Tất cả đều nằm trong những tính toán chiến lược chỉ có lợi cho Tàu mà thôi.

Nhưng nói gì thì nói, theo Linh, Mười, Anh, Ðồng Sĩ Nguyên, Ðoàn Khuê, Nguyễn Ðức Bình, Phạm Hùng... thì 'Trung Cộng dù có bá quyền cướp đoạt đất đai lãnh hải đảo biển của VN, thì cũng là một nước XHCN, nên VN nay phải cần tìm đủ mọi cách để hàn gắn lại tình đồng chí thắm thiết giữa hai nước đã bị sứt mẽ vừa qua. Có vậy đảng ta và đảng Tàu mới hy vọng sát cánh bên nhau gây dựng lại phong trào chủ nghĩa cộng sản đệ tam trên thế giới'.

Ngày 29-8-1990 đánh dấu sự kiện đảng CSVN qui phục đảng CS Tàu, qua việc Nguyễn Văn Linh, Ðổ Mười, kể cả Phạm Văn Ðồng được Giang Trạch Dân, Lý Bằng gọi tới chầu thiên triều tại Thành Ðô (Tứ Xuyên) để giải quyết vấn đề Kampuchia mà không nói gì tới vụ bình thường hóa ngoại giao cũng như vấn đề đang tranh chấp giữa hai nước tại biên giới và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1991 lại đại hội đảng lần thứ VII (1991-1996). Kỳ này hầu hết phe cánh theo Tàu đều nắm giữ các chức vụ quan trọng trong bộ chính trị gồm Mười (tổng bí thư), Lê Ðức Anh (chủ tịch nước) , Kiệt (thủ tướng) , Doàn Khuê (bộ trưởng quốc phòng) và Phan Văn Khải, Nông Ðức Mạnh.. Ngày 5-11-1991 Ðổ Mười và Võ Văn Kiệt sang chầu Bắc Kinh để ký thông cáo chung về bình thường hóa ngoại giao giữa hai nước nhưng không phải để ‘ môi hở răng lạnh và đồng chí chứ không phải đồng minh ‘ như trước.

Võ Văn Kiệt tiếp tục chính sách đổi mới kinh tế nhưng đồng thời vẫn tuân thủ theo đường lối chuyên chính của đảng CSVN qua Hiến Pháp 1992, điều 4 tái xác nhận chính sách ‘ kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và đảng CSVN luôn trung thành với chủ nghĩa Mác Lê và tư tưởng HCM ‘.Quân đội VN trong giai đoạn này trở thành một thế lực mạnh trong bộ chính trị nhưng tất cả tiềm năng chiến đấu chỉ được sử dụng để làm kinh tế, cho nên lảnh thổ của tổ tiên đâucòn ai bảo vệ. Vì vậy dần mòn lọt vào tay giặc Tàu là vậy đó.

Trong lúc đảng mê sảng vì được gần gũi trở lại với đông phương hồng để học tập và làm chỗ dựa lưng vững chắc thì giặc Tàu qua thế mạnh kinh tế và quân sự, ngày càng công khai lấn chiếm lảnh thổ và tài nguyên của VN trên Ðông Hải, để giành giựt khai thác dầu-khí, sử dụng thủy lộ quốc tế ngang qua lảnh hải của nước ta dọc theo miền duyên hải từ nam lên bắc. Người Mỹ cũng đã trở lại VN để làm giàu từ nhiệm kỳ đầu của TT Bill Clinton (1991) . Ngày 3-2-1994 Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận VN sau đó bình thường hóa ngoại giao tới thương mại song phương. Lúc này quyền hành cả nước nằm trong tay tam đầu chế Mười, Anh và Kiệt. Mỗi người lại có phe nhóm riêng để được theo Tàu hay Mỹ, nên giành giựt thanh toán nhau một cách khốc liệt.

Ngoài HCM thì Lê Khả Phiêu là tên công khai bán nước cho Trung Cộng, trong thòi gian y làm tổng bí thư từ tháng 2-1999. Chính Phiêu đã nhượng bộ Tàu qua các hiệp ước ký kết về biên giới trên bộ tới biển đảo lảnh hải vùng đánh cá.. Sau cùng Phiêu bị mất chức trong kỳ đại hội đảng lần thứ IX (2001-2006) nhường quyền bán nước lại cho Nông Ðức Mạnh (tổng bí thư) , Nguyễn Văn An, Trần Ðức Lương.. tiếp tục tới nay vẫn không thay đổi.

Hoàng Sa và Trường Sa, theo chính sử cũng như những tài liệu của ngoại quốc như Ðại Nam thực lục, Ðại Nam nhất thống chí của Quốc Sử quán triều Nguyễn, Hoàng Việt địa dư chí thời vua Minh Mạng, Quảng Ngãi tỉnh trí của các Tuần Vũ Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Ðình Chi, Quảng Ngãi nhất thống chí của Lê Ngại.đều đề cập tới và xác nhận đó lãnh thổ lâu đời của Ðại Việt.

Với các tác phẩm ngoại quốc gồm nhiều thiên ký sự của các giáo sĩ Thiên Chúa trên tàu Amphitrite, viết năm 1701, của Ðô Ðốc Pháp tên là D’Estaing viết năm 1768 rằng :’ Sự giao thông giữa đất liền và các đảo Paracel (Hoàng Sa) rất nguy hiểm, khó khăn nhưng Người Ðại Việt chỉ dùng các thuyền nhỏ, lại có thể đi lại dễ dàng.’ Nhưng quan trọng nhất, là tác phẩm viết về Hoàng Sa của Ðổ Bá tự Công Ðạo, viết năm Chính Hòa thứ 7 (1686), trong đó có bản đồ Bãi Cát Vàng :’ Ðảo phỏng chừng 600 dặm chiều dài và 20 dặm bề ngang. Vị trí nằm giữa cửa Ðại Chiêm và Quyết Mông. Hằng năm vào cuối mùa đông, các chúa Nguyễn Ðàng Trong, cho Hải Ðội Hoàng Sa gồm 18 chiến thuyền đến nơi tuần trú.’

Năm 1776, trong tác phẩm ‘Phủ Biên tạp lục’, Lê Quý Ðôn đã viết một cách rõ ràng :’ Trước đây, các Chúa Nguyễn đã đặt Ðội Hoàng Sa 70 suất, tuyển lính tại Xã An Vĩnh, cắt phiên mỗi năm vào tháng 2 ra đi, mang theo lương thực 6 tháng. Dùng loại thuyền câu nhỏ, gồm 5 chiếc, mất 3 ngày 3 đêm, từ đất liền tới đảo.’ Tóm lại Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ của VN ngay khi người Việt từ đàng ngoài tới định cư tại Phủ Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi vào khoảng thế kỷ thứ XV sau tây lịch. Hai quần đảo trên nằm ngoài khơi Ðông Hải : Hoàng Sa ở phía bắc và Trường Sa nằm về cực nam gần Côn Ðảo.

QUẦN ÐẢO HOÀNG SA : Nằm giữa hai kinh tuyến đông 111-112 độ và vĩ tuyến bắc 15 độ 45 ố 17 độ 05. Ðây là một chuổi đảo gồm 120 hòn lớn nhỏ nhưng qui tụ thành bốn nhóm chính. Muốn tới đảo, nếu khởi hành từ Ðà Nẳng, bằng tau của Hải quân phải mất 10 giờ (chừng 170 hải lý), theo hướng 083. Ðảo Dung Mộng (Drummond) hình bầu dục, diện tích 0km241, toàn đảo chỉ có nhàn nhàn và phốt phát. Giữa đảo có một vùng đất rộng, thời Ðệ 1 Cộng Hòa trước tháng 11-1963, Tiểu Ðoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến trấn đóng tại đây để bảo vệ lãnh thổ. Hiện trên đảo vẫn cò hai ngôi mộ lính VNCH và 3 ngôi mộ cổ khác với mộ bia viết bằng chử Hán.

Trong số này quan trong nhất vẫn là đảo Hoàng Sa (Pattle) có hình chữ nhật, chu vi 2100m, diện tích 0km230. Ðảo nay đã được khai phá từ lâu đời, nên có nhiều công trình kiến trúc như Ðồn quân trú phòng, Sở khí tượng, Hải đăng và cầu tàu để các chiến hạm Hải quân/VNCH cập bến. Trên đảo có một ngôi miếu cổ thờ Bà Chúa Ðảo và do một Trung đội Ðịa Phương Quân thuộc Tiểu Khu Quảng Nam trấn đóng.

QUẦN ÐẢO TRƯỜNG SA : gồm chín đảo lớn nhỏ, nằm giữa hải phận của các nước VN, Phi Luật Tân, Srawak. Trong số này đảo lớn nhất là Trường Sa (Sparley), dài 700m, ngang 200m, nằm ở kinh tuyến 114 độ 25 và vĩ tuyến 19 độ 10 bắc. Ðảo cấu tạo bởi san hô, có nhiều hải âu trú ngụ, đẻ trứng rất to. Trên đó có nhiều loại cây ăn trái vùng nhiệt đới như dừa, bàng, mù u, nhàn nhàn, rau sam

Về ÐỘI HOÀNG SA theo sử liệu cũng như nhân chứng thì buổi trước Ðội thường tập trung tại Vươn Ðồn, để luyện tập cũng như sửa chữa thuyền bè và nhận lệnh thượng cấp. Xã Tịnh Kỳ, thuộc Huyện Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) là nơi khai sinh Hải Ðội Hoàng Sa, khoảng mấy trăm về trước, thời các Chúa Nguyễn Nam Hà, thuộc Ðại Việt. Theo Quảng Ngãi địa dư chí, vùng đất này, trước năm 1898 thuộc trấn Bình Sơn. Năm Thành Thái thứ 10, tách ra thành 2 Huyện Bình Sơn và Sơn Tịnh. Có lẽ do địa thế sông nước bao quanh, nên từ mấy trăm năm về trước, Các Vị Chúa Nguyễn đã chọn An Vĩnh làm căn cứ , đặt Hải Ðội Hoàng Sa, với nhiệm vụ bảo vệ hải đảo, cũng như khai thác các tài nguyên ngoài Ðông Hải. Ðiều này đủ để minh chứng với thế giới, việc Quần Ðảo Hoàng Sa-Trường Sa là lãnh thổ lâu đời của Ðại Việt. Người Tàu chỉ ỷ vào sức mạnh và tờ văn khế bán nước của Phạm Văn Ðồng năm 1958, để cướp chiếm nước ta, như sau này chúng đã làm tại biên giới Việt Trung và Lãnh Hải trong Vịnh Bắc Việt.

Từ năm 1954, Hoàng Sa là một đơn vị hành chánh thuộc tỉnh Quảng Nam-VNCH, được Tiểu Ðoàn 1/TQLC bảo vệ. Từ năm 1959 tới 1974, Ðảo do các Ðơn Vị DPQ/Quảng Nam trú đóng. Giống như Quần Ðảo Trường Sa ở phía Nam, cũng là một đơn vị hành chánh , của tỉnh Phước Tuy và do DPQ của tỉnh này bảo vệ, cho tới ngày 30-4-1975.

Thật sự người Tàu chỉ chú ý tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VN từ đầu thế kỷ XX vì dầu hỏa, khí đốt và vị trí chiến lược của hai đảo trên. Sự tranh dành cướp chiếm bắt đầu từ thời VN bị thực dân Pháp đô hộ, vì mất chủ quyền nên không còn binh lực để bảo vệ lãnh thổ riêng của mình.

- 1907 Tổng đốc Quảng Châu đòi chủ quyền trên đảo Hoàng Sa.

- 1909 Hải quân Nhà Thanh tới Hoàng Sa hai lần, cắm cờ trên đảo và bắn 21 phát đạn đại bác để thị oai.

-Ngày 30-4-1921 chính quyền Quảng Ðông, ký văn thư số 831 tự động sáp nhập quần đảo Hoàng Sa của VN vào đảo Hải Nam nhưng đã bị Triều đình Huế phản đối dữ dội vào năm 1923.

- Năm 1933 , Pháp vì bị báo chí trong nước phản đối dữ dội, nên đã đem hải quân ra đánh đuổi quân Tàu, chiếm lại quần đảo Hoàng Sa, lập đồn binh, cầu tàu, đài khí tượng trên hai đảo chính Hoàng Sa, Trường Sa.

- Tháng 12/1946 Ðài Loan lợi dụng việc giải giới Nhật, đã chiếm đảo Phú Lâm trong nhóm Tuyên Ðức thuộc quần đao Hoàng Sa. Ðảo này lại lọt vào Trung Cộng khi Mao Trạch Ðông chiếm lục địa Trung Hoa.

- Ngày 4/12/1950 Chu Ân Lai lớn tiếng đòi hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VN.

- Năm 1956 Trung Cộng lén lút chiếm thêm đảo Linh Côn trong quần đảo Hoàng Sa, đang thuộc chủ quyền VNCH.

- Ngày 21/12/1959 Hải quân VNCH với sự trợ chiến của Tiểu đoàn 1 Thủy Chiến Lục Chiến đã đánh Tàu Cộng , chiếm lại các đảo Cam Tuyền, Duy Mộng, Quang Hòa trong nhóm Nguyệt Thiềm, bắt giữ 84 tù binh và 5 thuyền binh nguy trang tàu đánh cá. Ngày 27/2/1959 Trung Cộng sau khi thua trận, đã ra thông cáo mạt sát Chính phủ VNCH xâm phạm chủ quyền của Tàu, vì chính Hô Chí Minh cũng như Pham văn Ðồng đã chính thức xác nhận bằng văn kiện, là hai quần đảo trên qua tên Tây Sa, Nam Sa là lãnh thổ của Trung Hoa. Tuy nhiên để giữ hòa khí giữa hai nước, Tổng Thống Ngô Ðình Diệm đã thả hết số tù binh trên về nước.

Từ ngày 4-9-1958, Trung Cộng vẽ bản đồ mới và tuyên bố lãnh hải của mình là 12 hải lý. Bản tuyên cáo này chỉ có Bắc Hàn công nhận đầu tiên. Tại Bắc Việt, Hồ Chí Minh họp đảng để nhất trí và ban lệnh cho Phạm Văn Ðồng, ký nghị định công nhận ngày 14-9-1958. Ngày 9-1-1974, Kissinger tới Bắc Kinh mật đàm với Mao Trạch Ðông, được cho coi văn kiện mà Phạm Văn Ðồng đã ký xác nhận, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VNCH, chính là hai đảo Tây Sa-Nam Sa của Tàu. Theo văn kiện và tuyên cáo lãnh hải 12 hải lý, thì chính VNCH đã chiếm đất của Trung Cộng, từ năm 1958, do VC làm chứng và xác nhận. Ðược cơ hội vàng ròng, tên cáo già Kissinger nhân danh Nixon, bật đèn xanh, cho Mao đánh VNCH, đề thu hồi lãnh thổ.

Như thường lệ, vào ngày 18-1-1974 gần tới Tết Âm Lịch Nhâm Dần. Lúc đó Tuần Dương Hạm HQ.16 Lý Thường Kiệt, khởi hành từ Ðà Nẳng với công tác chuyển vận Ðơn vị Ðịa Phương Quân của Tiểu khu Quảng Nam ra Hoàng Sa hoán đổi định kỳ. Trong chuyến công tác trên, còn có một Phái đoàn khảo sát điạ chất , gồm 7 sĩ quan công binh và hải quân. Ngoài ra còn có một người Mỹ tên Gerald Kosh, là nhân viên tùng sự tại Tòa Lãnh sự Hoa Kỳ Vùng I Chiến thuật.

Trước khi vào đảo đổi quân, tàu HQ.16 đã vòng các đảo để kiểm soát, nên đã phát hiện được nhiều tàu chiến của Trung Cộng sơn màu xanh ô liu, ngụy trang như các tàu đánh cá, trang bị toàn vũ khí nặng. Trong lúc đó còn có nhiều tàu chiến khác đang di chuyển từ đảo Phú Lâm, tiến về các đảo Quang Hòa, Duy Mộng và Hoàng Sa.Do tình hình quá khẩn cấp, nên HQ.16 đã báo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Chiến thuật, nên được tăng cường thêm các Chiến hạm như Khu trục hạm Trần Khánh Dư, Tuần dương hạm Trần Bình Trọng và Hộ tống hạm Nhật Tảo. Tuy nhiên tất cả đã được lệnh Trung ương, chỉ phòng thủ, không được tấn công trước khi địch chưa khai hỏa.

Theo sử liệu, trong trận hải chiến này, lực lượng hải quân của Trung Cộng rất hùng hậu vì đã chuẩn bị trước. Bên VNCH, lực lượng tham chiến gồm Khu Trục Hạm HQ4 Trần Khánh Dư, Hạm Trưởng HQ Trung Tá Vũ Hữu San. Tuần Dương Hạm HQ5 Trần Bình Trọng , Hạm trưởng HQ Trung Ta Phạm Trọng Quỳnh. Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10, Hạm Trưởng HQ Thiếu Tá .Ngụy Văn Thà. Trong khi giao chiến, HQ10 bị trúng đạn, toàn thể thủy thủ xuống xuồng nhỏ, thì Hạm Trưởng ở lại tuấn quốc với chiến hạm. Tuần Dương Hạm HQ16, Hạm Trưởng là HQ.Trung Tá Lê Văn Thư. Về lực lượng trừ bị,, có Tuần Dương Hạm HQ6 Trần Quốc Toản, Hộ Tống Hạm HQ11 Chí Linh. Kết quả, phía VNCH, các chiến hạm 4,5 và 16 bị hư hại nặng nhưng chạy được về Ðà Nẳng sửa chữa và tiếp tục hoạt động sau đó. Chỉ có Chiến Hạm HQ10 bị chìm, Hạm trưởng Ngụy Văn Thà, bị thương nhưng quyết ở lại chết với tàu. Về phía Trung Cộng, Tư Lệnh Mặt Trận, Bộ Tham Mưu và 4 Hạm Trưởng tử thương. Hộ Tống Hạm 274 bị chìm, Hộ Tống Hạm 271 và 2 Trục lôi hạm 389-396 bị hư nặng và phá hủy cùng với 4 ngư thuyền bị bắn chìm

Theo các nhân chứng đã tham dự cuộc hải chiến kể lại, thì lúc đó các chiến hạm của Hải quân/VNCH , đã chống trả với giặc rất dũng mãnh, nên chỉ trong mấy phút đầu, đã có nhiều tàu chiến của Trung Cộng đã bị bắn chìm. Về phía VNCH, Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HO.16, bị bắn trúng bánh lái và sườn tàu, được HQ.11 dìu về Ðà Nẳng. Trên chiến trường lửa máu, chỉ còn HQ.10 và Hộ tống hạm Nhật Tảo, vùng vẩy chiến đấu vời hằng chục chiến hạm của Trung Cộng, được Không quân từ các căn cứ trên dảo Hải Nam tới yểm trợ.

Lịch sử lại tái diển, ngày 14-3-1988, Trung Cộng lại nổ súng vào Hải quân VN tại quần đảo Trường Sa. Trong cuộc hải chiến ngắn ngủi này, vì bên ta được lệnh không chống trả, nên chỉ phản ứng có lệ, nên phía Trung Cộng không có ai bị tử thương cũng như tàu chìm. Ngược lại, bên ta có nhiều tàu chiến bị chìm, gồm : Chiến Hạm Thượng Hải của Tàu viện trợ , 1 Tuần Dương Hạm củ của VNCH để lại, 1 Hải Vận Hạm của Nga Sô viện trợ và trên 300 lính Hải quân bị thương vong một cách oan uổng.

Tháng 6-2008 sau khi từ Mỹ trở về, thủ tướng VC Nguyễn Tấn Dũng một mặt triệt hạ vây cánh của Trung Cộng trong cái gọi quân khu Thủ đô Hà Nội. Nhưng quan trong hơn hết là việc ký kết khai thác dầu-khí chung với đại công ty Exxon-Mobile của Hoa Kỳ tại hai địa điểm sát bờ biển Quảng Nam và quần đảo Trường Sa, thuộc lãnh thổ VN. Sự kiện trên làm cho Tàu đỏ giận dữ , lên tiếng cũng như áp lực bắt công ty Mỹ trên phải hủy bỏ ý định. Ðây không phải là lần đầu TC lên mặt bá quyền với thế giới tại Ðông Hải. Nhưng lần này Hoa Kỳ kể cả VC không nhượng bộ và tuyên bố vẫn tiếp tục thực hiện những gì trong quyền hạn.

Ai cũng biết Trung Cộng hiện nay có một lực lượng hải quân rất hùng hậu thêm vào đó là một căn cứ tàu ngầm phóng bom nguyên tử ở phía nam đảo Hải Nam. Do đó nếu có hải chiến, VN không thể nào chống cự nổi với giặc Tàu. Nhưng TC tới nay hay thêm vài trăm năm nữa cũng sẽ chẳng bao giờ là đối thủ của Hoa Kỳ hay các nước tây phương như Anh, Pháp, Ý, Ðức, Hòa Lan.. đang khai thác dầu ở Ðông Hải. Ðó là chưa nói tới các cường quốc hải quân trong vùng như Nhật, Nam Hàn, Ðài Loan, Ấn Ðộ, Úc, Tân Tây Lan.. hiện đang là đồng minh thân cận của Mỹ. Trong khi đó ở Bắc Á , Nga Sô tuy có đồng hội nhưng không bao giờ đồng thuyền với Tàu đỏ và luôn chờ cơ hội để ‘ phanh thây xé xác ‘ tên điếm chảy của thế giới hiện nay.

Tóm lại TC ngày nay đang sa lầy vào bước đường mà LX đã từng dẵm trong thời kỳ chiến tranh lạnh, khi vung tay xã láng chạy đua vũ trang và sự hào nhoáng đã thấy trong kỳ thế vận hội 2008 với Mỹ. Sự kiện bá quyền nước lớn trong quân sự cũng như áp dụng thủ đoạn kinh tế để chèn ép lũng đoạn thế giới, thật sự đã đưa TC ngày nay tới ngã rẻ cô độc như Nga sau trận chiến Georgia hiện nay.

Việt Nam dù chỉ là một nước nhỏ lại độc tài độc đảng làm cho toàn dân ai cũng chán ghét. Tuy nhiên với chiến lược toàn cầu ngăn chận giặc Tàu đỏ tràn xuống phương Nam, VN lại là một quân cờ quan trọng nhất bàn cờ vì TC muốn tiến quân phải qua VN trước. Ðó là lý do TC nhận thức rõ ràng sự kiện trước mắt khi gây chiến tranh tại biển Ðông là tự mình lọt vào vòng vây của mọi phía, vì đã va chạm vào quyền lợi sinh tử của các nước chứ đâu riêng gì VN.

Hù dọa bằng vũ lực thấy lố bịch, nên Tàu đỏ lại thay đổi chiến thuật là tuyên bố sẽ Họp Báo ngày 14-9-2008 tại Hà Nội, nói là để đưa ra ánh sáng cái Công Hàm bán nước do Phạm Văn Ðồng đã ký. Nhưng đây là chuyện riêng của hai đảng cộng sản đâu có mắc mớ gì tới người Việt? Hơn nữa chuyện này ai cũng đã biết từ mấy chục năm về trước.

Hởi ôi 'cháy nhà mới lòi ra mặt chuột'.

Xóm Cồn Hạ uy Di
Tháng 9-2008
Mường Giang
---------------------
Liên quan:
- audio: lịch sử, thời sự, cs bán nước từ lâu

- audio Sự tích con yêu râu xanh
- audio quanh Công hàm bán nước của Phạm văn Đồng 1958 playlist

No comments: