Nghiêm Túc So Sánh Mục Tiêu Và Kết Quả 63 Năm Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Cố bám víu vào một chủ thuyết đã băng hoại
* 63 năm thủ tiêu dân quyền và thất bại trong dân sinh
* Quyền-tiền đã làm đảo lộn tiêu chuẩn giá trị cá nhân của nhóm cầm quyền
* Làm theo tiếng gọi của lương tâm và mệnh lệnh của trí tuệ!
Âu Dương Thệ
Hình: Ban lãnh đạo của Đảng CSVN (từ góc trái/trên theo đồng hồ): Ô. Nông Đức Mạnh (Tổng Bí Thư), Ô. Nguyễn Phú Trọng (Chủ Tịch Quốc Hội), Ô. Nguyễn Minh Triết (Chủ Tịch Nhà Nước), và Ô. Nguyễn Tấn Dũng (Thủ Tướng).
Trong dịp kỉ niệm 63 năm Cách mạng Tháng 8, nhà thơ, nhà báo Nguyễn Quang Thiều sinh ra và được giáo dục trong chế độ Xã hội Chủ nghĩa (XHCN) đã đưa ra nhận xét về tình trạng đất nước VN hiện nay so với 63 năm trước. Trong đó ông đã cảm nhận thấy hoàn cảnh tang thương của đất nước và thân phận nô lệ của người dân dưới sự thống trị của những người cầm quyền XHCN:
„Nếu làm cách mạng xong mà dân vẫn nghèo nàn, tụt hậu, và cách biệt so với thế giới, thì hậu cách mạng lại đẩy dân tộc về trạng thái ban đầu trước cách mạng, là thân phận của kẻ nô lệ. Đó không phải là thân phận nô lệ trước giặc ngoại xâm, mà nô lệ ở một hình thức khác, tinh vi hơn, mà đôi khi tự chúng ta không nhận ra được.“ [1]
Kể từ mùa Thu 1946 tới nay vừa đúng 63 năm cướp và giữ chính quyền của Đảng Cộng sản VN (ĐCSVN). Dù trong thời gian này tên đảng đã thay đổi (từ Đảng Lao động thành ĐCS) và tên nước cũng thay đổi (từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam), nhưng trước sau cái bất biến của nó là chế độ toàn trị của một đảng độc tài theo chủ nghĩa Marx-Lenin và thực hiện cách hành xử quyền lực theo cách của các bạo chúa Stalin và Mao Trạch Đông. Một chế độ chính trị mà sau 63 năm cầm quyền vẫn phải tiếp tục duy trì và sử dụng các biện pháp tàn bạo như đàn áp, giam giữ và tra tấn những người khác chính kiến đã tự chứng tỏ rằng, nó mất tự tin, rất yếu và không được lòng dân!
Mặc dù suốt 63 năm tự do uốn nắn nhân dân để nặn thành những „con người XHCN“, nhưng những người cầm quyền vẫn không tin dân do chính họ đã đào tạo, cấm đoán các cuộc biểu tình, các cuộc khiếu kiện của dân oan và các cuộc đình công của công nhân. Thậm chí còn ngăn cản các cuộc biểu tình của thanh niên chống lại các đòi hỏi ngang ngược bành trướng lãnh thổ của bá quyền Bắc kinh. Sau 63 năm cầm quyền nhưng chế độ này vẫn phải bắt giam và cấm hành nghề các nhà báo và văn nghệ sĩ do chính họ đào tạo, vì những người này biết giữ tự trọng và khí phách không chịu để bị bẻ cong ngòi bút hay ngậm miệng ăn tiền! Một chế độ như thế đã đánh lừa và khinh thường nhân dân, ngay cả đồng chí của mình!
Ngoài các biện pháp độc tài tàn bạo trên đây, sau 63 năm cầm quyền nhưng những người cầm đầu chế độ vẫn tiếp tục duy trì các chủ trương bá đạo, dụ dỗ và lừa phỉnh nhân dân và đồng bào các tôn giáo. Như dựng lên Mặt trận Tổ quốc làm tổ chức bù nhìn, dân chủ giả tạo cho chế độ toàn trị; đẻ ra Giáo hội Phật giáo VN và Ủy ban Đoàn kết Thiên chúa giáo… để đàn áp và phân hóa các giáo hội Phật giáo và Công giáo. Không những thế, đồng bào về thăm quê hương đều bị các lực lượng công an theo dõi, thậm chí nhiều người đã bị giam giữ và bị trục suất! Chế độ toàn trị sợ các tổ chức độc lập và dân chủ trong chính trị, tôn giáo, văn hóa và giáo dục như vi trùng đối với thuốc trụ sinh! Chế độ này chỉ sinh sản ra những người lãnh đạo lừa lọc!
Về mặt kinh tế và xã hội, mặc dù đã cai trị đất nước 63 năm nhưng VN hiện nay lợi tức đầu người rất thấp chỉ có trên 2 Mĩ kim mỗi ngày, nghĩa là vẫn thuộc trong số những nước nghèo đói nhất trên thế giới và tụt hậu rất xa so với cả nhiều nước trong khu vực. Trong khi đó nhiều nước trong khu vực không theo mô hình XHCN đã bỏ xa VN cả mấy chục lần. Người dân những nước này được hưởng cuộc sống vật chất xung túc, các quyền tự do dân chủ được bảo đảm. Như vậy chế độ toàn trị ở VN đã chứng tỏ sự bất lực về việc nâng cao mức sống của nhân dân!
Do đó thật là rõ ràng, tuy đã 63 năm cầm quyền, nhưng chế độ toàn trị vẫn không giải quyết được các nhu cầu cơ bản của người dân về cơm áo, hạnh phúc và lại còn ra mặt thủ tiêu dân quyền, cho nên vẫn phải dùng các biện pháp hợp pháp trá hình (xuyên qua nhà nước) tới các thủ đoạn ma đạo để loại trừ những người có chính kiến khác, cả các đảng viên CS còn giữ được tư cách. Trong khi ấy những người cầm đầu không chỉ biến thành các bạo chúa đối với người dân mà còn trở thành những phần tử tham nhũng và lộng quyền. Như thế chế độ này đã tự chứng tỏ: 1. Chủ thuyết của chế độ này sai lầm không thể giải quyết được nhu cầu chính đáng của nhân dân. 2. Chế độ này ngày càng mất lòng dân và phương pháp hành xử quyền lực của những người cầm đầu là vô nhân đạo và bất chính, không phù hợp với tình hình phát triển chung của thế giới. Một chế độ cầm quyền chỉ dựa trên đàn áp và man trá là một chế độ rất yếu. 3. Những người cầm đầu chế độ đã bị hủ hóa, nhưng vẫn quyết bám víu vào quyền lực để vinh thân, tự họ không thể nhận thức được sai lầm. Vì thế, chính họ đã hủy hoại lí do chính đáng để tiếp tục cầm quyền.
Trước những sai lầm chồng chất, thất bại và bạo ngược chưa từng có của chế độ toàn trị rõ ràng như thế thì cuộc vận động của nhân dân để thay đổi chế độ toàn trị bằng chế độ dân chủ đa nguyên (DCDN) là một yêu cầu thực tế và thúc bách. Đây là tiếng gọi của lương tâm và mệnh lệnh của trí tuệ cho tất cả người Việt ở trong và ngoài nước, kể cả những đảng viên CS còn ý thức và tự trọng!
Cố bám víu vào một chủ thuyết đã băng hoại
Sụ sụp đổ của Liên xô - một thần tượng và từng là người đỡ đầu của ĐCSVN- kéo theo sự sụp đổ của thế giới cộng sản và phá tan huyền thoại thiên đàng XHCN! Mặc dầu Liên xô, cái nôi và thành trì của XHCN trên thế giới, đã tan rã từ gần hai thập niên, nhưng tại sao những người CSVN bảo thủ vẫn còn cố giương ngọn cờ XHCN?
Không phải chỉ những đảng viên tiến bộ trong đảng ngày càng thấy rất rõ việc này, nhiều đảng viên bảo thủ cũng đã thấy như vậy. Nhưng oái ăm thay do động cơ xuất phát từ quyền lợi cá nhân, họ lại coi đó là nguy cơ cho chính bản thân họ chứ không phải là cơ hội may cho nhân dân và đất nước. Vì vậy trong thời gian qua trước các đòi hỏi rất chính đáng và cấp bách của nhân dân về việc cần phải nhanh chóng tiến hành dân chủ hóa thực sự cho đất nước, họ đã tìm mọi cách ngăn chặn bằng nhiều mánh lới tàn bạo và xảo quyệt với mục tiêu trước sau là cố duy trì chế độ độc đảng càng lâu càng tốt để giữ gìn quyền lực. Vì trong chế độ này quyền lực đang đẻ ra tiền bạc, làm giầu rất nhanh chóng qua tham nhũng, đầu cơ và lộng quyền.
Trong lãnh vực tư tưởng thì những người đang có quyền lực lớn ở trong Bộ chính trị (BCT) và Ban bí thư (BBT) như Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, hay từng là ủy viên BCT nhưng vẫn còn quyền uy lớn như Đỗ Mười, Lê Đức Anh và Nguyễn Đức Bình…vẫn ngụy biện cho rằng, sự tan rã của Liên xô chỉ có tính cách giai đoạn và tương lai thế giới vẫn thuộc về XHCN! Trong khi đó ngay chính Mai Chí Thọ, nguyên ủy viên BCT và Bộ trưởng An ninh (nay là bộ Công an) đã nói thẳng là:
„Nói thật với các anh tôi có cảm giác, chẳng bao lâu nữa Đảng mất quyền lãnh đạo. Có thể lúc đó tụi tôi còn sống hay đã chết. Tôi nói thật suy nghĩ của một người đã chiến đấu tuy không được lâu như khai quốc công thần, nhưng cũng gần 70 năm tuổi đảng và nhiều người cũng nói với tôi như thế chứ không phải một mình tôi.“ [2]
Trong kinh tế, họ biết rõ đây là mặt yếu nhất của chế độ, nên đã phải từ bỏ các mô hình kinh tế sơ cứng của XHCN và sử dụng một số công cụ của kinh tế thị trường (KTTT), nhưng trước sau vẫn duy trì hệ thống doanh nghiệp nhà nước (DNNN) qua các tên mới như các tập đoàn kinh tế và tổng công ti. Mục tiêu của việc giữ chế độ DNNN làm chủ đạo sinh hoạt kinh tế là dùng nó làm phương tiện để tiếp tục chỉ huy và thao túng toàn bộ nền kinh tế của VN, đồng thời dùng nó làm phương tiện mua vây cánh để bảo vệ quyền lực, bất kể tới những hậu quả rất tai hại cho đất nước như gánh nặng cho ngân sách quốc gia, tham nhũng, lạm phát mà nhân dân đang phải chịu hậu quả điêu đứng. Có hiểu được những ý đồ này của những người lãnh đạo bảo thủ mới hiểu việc, tại sao trong suốt trên 20 năm gọi là „đổi mới“ họ vẫn khăng khăng chủ trương „KTTT theo định hướng XHCN“. Nội dung cụm từ „định hướng XHCN“ nên hiểu ở đây là phải giữ những sự phát triển KTTT trong khuôn khổ của một chế độ toàn trị dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng, mà trong thực tế là chỉ của một vài người có quyền lực cao nhất ở trong và ngoài BCT! Chính vì thế trước sau Điều 4 Hiến pháp 1992 giữ độc quyền toàn bộ xã hội cho ĐCS vẫn được duy trì. Cho nên không lạ khi Chủ tịch nước hiện nay của chế độ là Nguyễn Minh Triết đã phải lên tiếng vừa đe dọa vừa bênh vực cho rằng: „Bỏ Điều 4 Hiến pháp“ là „tự sát“!
„Dù ai nói ngả nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp gì đó thì không có chuyện đó. Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố chúng ta tự sát, cho nên phải củng cố công tác chính trị tư tưởng, củng cố vai trò của Đảng.“[3]
63 năm thủ tiêu dân quyền
Khi khai trương chế độ, người sáng lập nó đã từng tuyên bố, chính phủ là do dân và vì dân. Nhưng suốt mấy chục năm qua mọi sinh hoạt chính trị ở VN, từ khi cai quản ở miền Bắc cho tới lúc thống trị toàn nước, đã chứng minh không thể chối cãi được là, mọi dân quyền căn bản của nhân dân đã bị những người có quyền hành thủ tiêu có hệ thống theo các chủ trương rất rõ ràng và những biện pháp cực kì dã man của Stalin và Mao Trạch Đông chưa từng có trong lịch sử của VN: Phong trào „Cải cách ruộng đất“ giữa thập niên 50 của thế kỉ trước đã giết hại hàng trăm ngàn nông dân và loại trừ hàng chục ngàn đảng viên đã từng có công lớn cho cách mạng. Vụ án „Xét lại chống đảng“ trong thập niên 60 đã giam cầm và loại trừ nhiều trí thức, sĩ quan và văn nghệ sĩ yêu nước tiến bộ cảnh báo về những chủ trương phiêu lưu trong chiến tranh mở rộng ở miền Nam và bám víu vào Bắc kinh. Thiết lập chế độ „tập trung cải tạo“ giam cầm và hành hạ hàng trăm ngàn binh sĩ, trí thức, chuyên viên và những người hoạt động chính trị ở miền Nam sau 1975. Chiến dịch „đánh đổ tư sản mại bản“ cuối thập niên 70 tịch thu các xí nghiệp, công xưởng và cửa hàng…của các doanh nghiệp tư nhân và cưỡng bách đày ải họ cùng gia đình về các „vùng kinh tế mới“ ở những vùng khô cằn và nước độc đã phá hủy toàn bộ nền công nghiệp ở miền Nam. Tiến hành „kinh tế tập thể“ trong nông nghiệp bằng cách cưỡng bách hàng triệu nông dân miền Nam phải nộp ruộng đất và các phương tiện sản xuất cho các hợp tác xã (được thổi lên như đũa thần của mô hình XHCN trong nông nghiệp, „biến sỏi đá thành đồng ruộng!“) Nhưng trong thực tế đã chứng tỏ chính sách này hoàn toàn sai lầm và thất nhân tâm nên đã biến đồng ruộng thành sỏi đá, tạo ra nạn đói khủng khiếp suốt từ cuối thập niên 70 tới cuối thập niên 80. Do sự chống đối của nông dân nên chế độ hợp tác xã đã phải hủy bỏ không kèn chống từ cuối thập niên 80, và chính nhờ thế từ đó VN mới trở thành một nước xuất cảng gạo! Sau khi chiếm được miền Nam nhóm lãnh đạo của chế độ toàn trị đã vội vất đi tất cả những gì họ đã hứa hẹn bằng cách giải tán các chính đảng, cấm đoán các giáo hội độc lập và giam giữ hàng chục ngàn người hoạt động chính trị, tu sĩ các tôn giáo; giải tán cả Mặt trận Giải phóng và bỏ rơi các cựu kháng chiến. Do chính sách hống hách và bạo ngược áp dụng „tư pháp của kẻ chiến thắng“ đã xô đẩy mấy triệu thuyền nhân phải bỏ nước ra đi tìm tự do và cuộc sống an lành. Hàng trăm ngàn người đã phải vùi thân trong biển cả. Những cảnh tượng thê lương chưa từng có trong lịch sử của dân tộc và đã động lòng dư luận thế giới.
Dưới chế độ công an trị vô cùng hà khắc chưa từng có trong lịch sử VN, khiến cho sau 63 năm những quyền căn bản của công dân đã bị thủ tiêu, hoặc chỉ còn là hình thức, làm trò chơi, cây cảnh cho những người lãnh đạo độc tài. Từ 63 năm nay chưa có một cuộc bầu cử dân chủ thực sự nào ở các cấp trung ương như quốc hội, chủ tịch nước, thủ tướng… Nhất cử nhất động đều do tay đạo diễn của một nhóm nhỏ người có quyền lực tổ chức các cuộc bầu cử quốc hội, chủ tịch nước, thủ tướng… với số phiếu đắc cử 99% ! Nếu người dân nào lên tiếng chỉ trích các trò „đảng cử dân bầu“, „quốc hội gật“ và đòi các quyền tự do ứng cửa và bầu cử theo các nguyên tắc sinh hoạt chính trị DCĐN thì bị chụp mũ là „phản động“, „chống phá cách mạng“…sẽ bị theo dõi và tù đày!
Thái độ sợ dân, coi thường dân và đàn áp dân đã trở thành một nền nếp tư duy và lối hành xử quyền lực của những người cầm quyền theo chủ nghĩa coi dân như cục đất sét tự do nhào nặn, hay như tờ giấy trắng tha hồ vẽ gì lên cũng được. Dựa trên nền tảng tư duy độc tài này chế độ đã xây dựng lên một bộ máy quyền lực có cách vận hành mang tính cưỡng chế khiến cho nhiều thế hệ lãnh đạo của chế độ đều như cá mè một lứa, tự mình đánh mất lương tâm và tự trọng. Chính tướng Đặng Quốc Bảo, nguyên Ủy viên Trung ương đảng (TUĐ) và Bí thư Thứ nhất Đoàn Thanh niên CS HCM đã xác nhận:
„Họ đã phải điều chỉnh ngôn ngữ, điều chỉnh tư duy, điều chỉnh đến mức tự đánh mất mình: Không điều chỉnh thì chết ngay, không đứng được.“ [4]
Chủ nghĩa một vài người nghĩ thay cho cả nước đã cho thấy tình trạng ấu trĩ về kiến thức và thái độ khinh miệt người dân của những người cầm đầu chế độ. Thực hiện chủ nghĩa này là họ đang dẫm chân theo chính sách của Stalin và Mao Trạch Đông! Sự tàn bạo của nó reo rắc như thế nào ở Liên xô cũ, ở Trung Hoa, VN và những nước CS đã được Hoàng Tùng, nguyên Bí thư TUĐ và Trưởng ban Tuyến huấn Trung ương đã nói rõ:
„Thật không ngoa: Gengis Khan, Napoleon, Hitler không thể sánh vai với Stalin; Tần Thủy Hoàng, Hán cao Tổ, Đường Thái Tôn không thể sánh với Mao Trạch Đông.“[5]
Ngay cả khi còn sống cựu TT Võ Văn Kiệt cũng đã nhiều lần công khai đòi phải dân chủ hóa ngay trong nội bộ ĐCS để dân chủ hóa xã hội. Nhưng các lời này như nước đổ lá khoai đối với nhóm có quyền lực!
Và 63 năm thất bại trong dân sinh
Sau 63 năm theo đuổi con đường phát triển kinh tế theo mô hình XHCN mà họ vẫn tự tô son là khoa học, đỉnh cao của trí tuệ và phù hợp với điều kiện của VN, nhưng tới nay mức lợi tức đầu người trung bình ở VN mới chỉ đạt trên 2 Mĩ kim/ ngày. Vì thế VN vẫn là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới như chính tướng Võ Nguyên Giáp đã nhìn nhận:
„Phải nói rằng hiện nay nước ta đang còn là một trong những nước nghèo trên thế giới, cơ cấu kinh tế phần lớn còn là nông nghiệp, năng suất lao động thấp kém hàng trăm lần, trình độ công nghệ lạc hậu hàng thế kỉ so với các nước phát riển.“ [6]
Trong khi đó nhiều nước trong khu vực không theo chế độ XHCN lại đạt tới phát triển kinh tế rất cao, trở thành những nước công nghệ tiên tiến, lợi tức đầu người của người dân các nước này gấp cả mấy chục lần VN. Như theo thống kê của Ngân hàng Thế giới thì năm 2005 mức lợi tức đầu người của VN là 620 Mĩ kim, các nước gần ta nhưng theo thể chế DCĐN như Nhật (38.950), Đài loan (16.070) và Nam Hàn 2 (15.840).
Hiện nay cuộc sống của mấy triệu công nhân ở Sài gòn, Hà nội và trong các khu công nghiệp chế suất đã được báo chí của ngay chế độ mô tả còn đói rách và khổ cực hơn cả thời thực dân. Họ phải sống chui rúc trong các phòng thuê như các „ổ chuồng gà“, bị chủ nhân ngoại quốc bóc lột, bị công đoàn bỏ rơi. Đã thế mới đây vì sợ phong trào đình công lan rộng trước thảm cảnh vật giá leo thang chóng mặt, nên người cầm đầu chính phủ đã vội vàng ra lệnh cấm đình công! Ngoài ra để giải quyết nạn thất nghiệp ở trong nước và thu vén ngoại tệ, chế độ còn đưa cả hơn nửa triệu công nhân VN phải lao động ở nước ngoài với đồng lương chết đói và bị chủ hành hạ. Nghĩa là ngay vào đầu thế kỉ 21 những người cầm đầu chế độ toàn trị ở VN đang làm sống dậy cách buôn bán nô lệ trước đây của thực dân vào đầu thế kỉ trước. Một điều mà chính những người sáng lập chế độ đã từng kết án nghiêm khắc!
Trên 70% dân số VN là nông dân (tức trên 60 triệu người) và mặc dầu VN đang trở thành nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo, nhưng đời sống của nông dân đang bị thiệt thòi nhất, cảnh chênh lệch giầu nghèo giữa thành thị và nông thôn ngày càng mở rộng…. Khi còn trong chiến tranh thì nông dân, nông thôn là chỗ dựa cho cán bộ, nhưng mấy chục năm qua nhóm lãnh đạo đã bỏ rơi nông dân, không đầu tư cho nông nghiệp nên các phương tiện sản suất vẫn thô sơ và lạc hậu, các cơ sở hạ tầng không được xây dựng, cho nên năng suất nông nghiệp thấp và đang giảm. Hội nghị Trung ương 7 vừa qua cũng đã phải nhìn nhận tình hình rất xấu này.[7]
Một nguyên tắc căn bản để đưa đất nước ra khỏi tình trạng nghèo đói, lạc hậu là phải cải cách giáo dục theo kịp đà với các nước tiên tiến. Nhưng nền giáo dục các cấp hiện nay ở VN- từ cấp mầm non, tiểu học, trung học tới đại học- vẫn bị xếp là lạc hậu trên thế giới, từ chương trình giảng dậy, giáo chức tới trường sở. Lối học từ chương, cách học chay vẫn là phổ thông, cho nên ngày càng thiếu các giới chuyên viên có tay nghề và trình độ chuyên môn cao. Đây là một trở ngại lớn cho sự phát triển vững chắc của đất nước so với ngay nhiều nước trong khu vực. Đã thế chủ trương „hồng“ hơn „chuyên“, bắt học sinh và sinh viên phải học tập chủ nghĩa Marx-Lenin một cách nhàm chán, phải gia nhập đoàn viên thanh thiếu niên của chế độ và ĐCS vẫn chỉ đạo trực tiếp Đoàn Thanh niên CS HCM…đã tạo ra một tầng lớp trẻ chỉ biết tuân hành mù quáng, mất đầu óc sáng tạo và độc lập. Như vậy là đang thiếu vắng những cơ sở cần thiết cho sự cất cánh và phát triển vững bền của một nước. „Học giả bằng thật“ đã khiến nhiều người bất tài và vô đức leo lên được các chức vụ quan trọng trong các guồng máy của chế độ ở trung ương cũng như địa phương. Không những thế, chủ nghĩa „con ông cháu cha“ và tấm thẻ đảng vẫn là tiêu chí tuyển chọn công chức và cán bộ. Nhiều chuyên viên có tài đức đang bị đẩy sang bên lề. Tiêu chí cất nhắc cán bộ rất sai lầm này đã được Trần Bạch Đằng, nguyên cán bộ cao cấp phụ trách trí vận đã nói thẳng:
„Rốt cuộc tài năng là thằng nào nịnh giỏi, thằng nào bợ đít hay; dạ dạ, dạ dạ, vâng vâng, chí phải, chí phải thì thằng đó „tài năng“.“[8]
Mặc dầu các tệ trạng này rất phổ biến và bị nhiều trí thức và chuyên viên kết án, nhưng mới đây sau Hội nghị Trung ương (HNTU) 7, BCT vừa ra Quyết nghị về thanh niên và trí thức vẫn tiếp tục theo con đường mòn là cột chặt các giới trẻ dưới sự lãnh đạo độc quyền của đảng![9]
Nhóm cầm đầu đã đảo lộn tiêu chuẩn giá trị của họ
Nhiều người, kể cả những đảng viên biết tự trọng, đã đặt câu hỏi, tại sao từ một đảng tự gọi là „cách mạng“, lúc đầu thề thốt vì dân vì nước, vì độc lập, tự do dân chủ mà nay chế độ này đã hoàn toàn làm ngược lại và nhóm lãnh đạo hiện nay đang quay lưng trước những bức xúc của nhân dân? Sự thay lòng đổi dạ của những người lãnh đạo chế độ càng ngày càng trắng trợn rõ rệt, nhất là từ khi thực hành „KTTT theo định hướng XHCN“. Trong dịp kỉ niệm 63 năm Cách mạng Tháng 8, nhà báo và nhà văn có tâm huyết Võ Đắc Danh đã thuật lại sự phản bội nhân dân của những người đã từng được nhân dân che chở:
„- Tôi và những người gọi là quan chức ấy cùng có chung một quá khứ. Sau khi ba tôi và các anh tôi hi sinh, gia đình tôi vẫn tiếp tục nuôi chứa cán bộ cách mạng, những người đồng đội của ba và anh tôi. Tôi nhớ có một lần, vào lúc nửa đêm, một nhóm cán bộ chạy vào nhà tôi sau một cuộc giao tranh, có những người vừa bị thương vừa đói. Mẹ tôi vừa chăm sóc vừa làm gà nấu cháo đãi họ, trong đó có ông Đ., một cấp trên của ba tôi. Hôm ấy ông xúc động nói với mẹ tôi: “Sau này cách mạng thành công, phần lớn là nhờ những người dân tốt bụng như chị”.
Chiến tranh kết thúc, ông Đ. tìm đến thăm gia đình tôi, thấy ông đi xe hơi có cận vệ đi cùng, mẹ tôi hỏi bây giờ ông giữ chức vụ gì thì ông nghiêm túc nói: “Chị đừng hỏi thế, người cách mạng dù ở cương vị nào cũng là đầy tớ của nhân dân mà thôi”. Từ đó tôi không có dịp gặp ông. Gần hai chục năm sau, tình cờ tôi thấy một đoàn nông dân đến trước cổng cơ quan ông, xin gặp ông để giải quyết chuyện đất đai, ông không tiếp.“ [10]
Lợi dụng sự độc quyền của đảng, những người có „quyền lực“ trong BCT đang cấu kết với những người có „quyền uy“ đã lợi dụng uy quyền để làm giầu rất nhanh chóng qua các con đường bất chính như tham nhũng, đầu cơ tài sản của nhân dân. Sự độc quyền đã cho phép những người có quyền lực ở trung ương và địa phương xà xẻo các nguồn viện trợ và đầu tư của nước ngoài, toa rập với các chủ nhân ngoại quốc đầu cơ đất đai, khách sạn, các trung tâm nghỉ mát và các cao ốc; chiếm giữ các biệt thự công thành nhà riêng, cho thuê nhà công, đất công…bỏ vào túi riêng! Nhờ thế nhiều người cầm quyền đã trở thành triệu phú Dollar. Hiện nay họ đang dùng tiền của do sự làm giầu bất chính để củng cố thêm quyền hành. „Quyền-tiền“ đã là động cơ chính cho việc bảo vệ quyền lực. Chính điều này cựu Tổng bí thư (TBT) Lê Khả Phiêu đã nhìn nhận:
„Anh có chức gắn với anh có tiền, quyền sinh ra tiền, có tiền dựa vào quyền để sinh ra nhiều tiền hơn (thậm chí sinh ra quyền). Anh có tiền bám lấy anh có quyền, đến chừng mực nào đó nó sẽ chi phối anh có quyền. Hai cái cấu kết nhau đục vào nội bộ đảng, nội bộ bộ máy nhà nước. Nói hình tượng, nó như một khối ung thư nằm trong cơ thể“[11]
Cả cựu Ủy viên BCT, nguyên bộ trưởng Công an, Mai Chí Thọ đã nhận xét về sự thay lòng đổi dạ của những người cầm quyền hiện nay: „Chỉ tiền thôi, mà lí tưởng CS phai nhạt là nó có cái lí do khách quan của nó.“ [12]
Thu vén tiền bạc và bảo vệ của cải đã trở thành động cơ chính trong các quyết định của những người có quyền lực lớn nhất trong chế độ hiện nay. Để thực hiện tư lợi họ sẵn sàng đạp cả trên pháp luật, vất bỏ kỉ cương điều lệ đảng. Cụ thể nhất như vụ tham nhũng PMU 18 mà chính tướng Võ Nguyên Giáp, người cuối cùng còn sống trong nhóm sáng lập chế độ, đã phải công nhận đây là vụ tham nhũng „cực kì nghiêm trọng“[13] từ trước tới nay. Vụ này đụng chạm tới ngay cả gia đình TBT Nông Đức Mạnh và nhiều nhân vật có quyền lực trong Ủy ban kiểm tra Trung ương, Ban Nội chính trung ương, bộ Công an, bộ Giao thông vận tải, Văn phòng chính phủ, Tòa án Nhân dân…Việc nhiều quan lớn đã chia chác, xà xẻo hàng nhiều tỉ đồng trong các công trình xây dựng đường, cầu…đã được nhiều nhân vật đương thời từ cuối năm 2005 như cựu TT Phan Văn Khải, nguyên Thường trực Ban bí thư Phan Diễn xác nhận và được báo chí của ngay chế độ tường thuật. Nhưng Nông Đức Mạnh và phe cánh đã từ chối đòi hỏi của tướng Giáp và dư luận rộng rãi không đưa vụ tham nhũng PMU 18 ra thảo luận trong Đại hội 10 đầu 2006. Đầu năm nay họ còn tha bổng cựu Thứ trưởng giao thông vận tải Nguyễn Việt Tiến -người ở cấp cao nhất bị giam trong vụ án này- và ra lệnh bắt giam hai nhà báo cũng như cấm hành nghề nhiều nhà báo khác đã từng tố cáo và viết bài tường thuật vụ PMU 18. Nhưng gần đây để xoa dịu sự bất bình rất lớn của dư luận trong và ngoài đảng, nhóm cầm quyền lại ra lệnh thi hành kỉ luật với Nguyễn Việt Tiến. Dư luận đang đưa ra đòi hỏi với những người cầm quyền: Nếu Nguyễn Việt Tiến có tội thì những nhà báo vừa bị giam hay mất chức phải được coi là vô tội và phải trả tự do cũng như phục quyền ngay cho họ. Đấy mới là công lí. Nhưng những người cầm đầu hiện nay đã không dám có quyết định như vậy, vì chính tay họ đã dúng chàm và sợ rằng giứt dây thì động rừng!
Khi Ủy ban Kiểm tra trung ương tha Nguyễn Việt Tiến thì TT Nguyễn Tấn Dũng kiêm Trưởng ban Trung ương chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, đã ủng hộ; đến khi BBT đòi cách chức ông Tiến thì người cầm đầu chính phủ hạ bút kí ngay. Nguyễn Tấn Dũng đang tự chứng tỏ người cầm cờ rất dở cho bọn tham quan trong BCT. Mùa hè 2006 khi Ban chỉ đạo Trung ương phòng, chống tham nhũng được thành lập thì Ủy viên BCT Trương Vĩnh Trọng, kiêm Phó Trưởng ban của Ban này đã hùng hổ nói rằng, kì này „xuất tướng“ đánh tham nhũng thì các quan tham bất kể là ai cũng sẽ bị trừng trị nghiêm khắc. Nhưng vụ tham nhũng động trời PMU 18 đã chứng tỏ là xuất tướng chính là bảo vệ cho các quan lớn từ Nông Đức Mạnh trở xuống tự do hôi của của nhân dân, đồng thời trừng trị thẳng tay các nhà báo dám nói thực nói thẳng trong việc tố cáo tham nhũng! Bùi Văn Thanh, Phó TBT báo Tuổi trẻ, người mới đây đã bị Bộ Thông tin và truyền thông của chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cách chức và cấm hành nghề cũng chỉ vì ông đã bênh vực các đồng nghiệp bị bắt giam vì tố cáo tham nhũng, đã vạch rõ :
„Đồng nghiệp đó đang trả giá cho những dòng tin của mình về vụ PMU18 - một vụ án chưa kết thúc và đang có những diễn biến kỳ lạ. Ai ở trong hậu trường vụ án này mới hiểu hết sự kỳ lạ và phức tạp của nó. Ai đó đã đúng khi nói rằng, công lý dường như bị nhạo báng qua vụ án này và nhà báo đã trở thành nạn nhân.“ [14]
Ngoài vụ tham nhũng động trời PMU 18 đã bị những người có quyền lực khóa sổ, cần phải nói tới vụ Tổng cục II thuộc bộ Quốc phòng. Dưới thời làm bộ trưởng Quốc phòng và Chủ tịch nước, Lê Đức Anh đã toa rập với TBT Đỗ Mười, theo lời của chính tướng Võ Nguyên Giáp, họ đã biến Tổng cục II phụ trách tình báo thành một cơ quan riêng:
„Có những hoạt động phá hoại Đảng nghiêm trọng một cách có hệ thống, có tổ chức kéo dài hàng chục năm đặt máy nghe trộm các đồng chí lãnh đạo và các cán bộ cấp cao, sử dụng những thông tin sai lệch để phá rối và chia rẽ nội bộ, cố tình gây ra bè phái trong Đảng, tạo ra chứng cứ giả để hãm hại những cán bộ tốt của Đảng, vi phạm nghiêm trọng đến điều lệ Đảng, vi phạm pháp luật Nhà nước và kỉ luật của quân đội“.[15]
Trong bản điều trần 7 điểm gởi TBT Nông Đức Mạnh và BCT ngày 3.1.04 tướng Giáp đã đòi „không cho phép duy trì mãi một tổ chức siêu đảng, siêu chính phủ“[16] như Tổng cục II. Nhiều ủy viên BCT, TUĐ và sĩ quan cấp tướng cũng đã lên tiếng đòi phải trừng trị Lê Đức Anh. Nhưng một số người có quyền lực cũng vẫn ngang ngược xếp vụ này sang một bên như vụ PMU 18 sau này!
Chế độ KTTT theo định hướng XHCN dưới sự độc quyền thao túng của một số người có quyền lực đang biến những người cầm quyền vô sản thành triệu phú Dollar. Sức mạnh của tiền bạc đã thay đổi tiêu chuẩn giá trị cá nhân trong giới người đang nắm quyền lực từ trung ương tới địa phương. Khi chưa có quyền hành thì họ kết án sự độc tài, bóc lột, tham nhũng và vô pháp luật của thực dân; nhưng sau khi đã nắm các chức vụ cao và được hưởng các lợi lộc do quyền bính mang lại thì họ liền ra tay giữ độc quyền để duy trì các đặc quyền đặc lợi, ngồi xổm trên luật pháp. Họ đã bước vào vết chân của thực dân! Điều khác biệt quan trọng ở đây là, họ đang ra tay đàn áp và bóc lột chính đồng bào và đồng chí của họ!
Quyền hành trong một chế độ độc tài như một con ngựa bất kham. Văn hóa chính trị tự rút lui hay tự từ nhiệm rất xa lạ với những người độc tài và tham lam quyền lực. Qui luật chính trị này đã từng phổ biến trong thời phong kiến trước đây từ Đông sang Tây và nay đang phổ cập thành tập quán trong tư duy, thái độ và hành động của những người cầm đầu chế độ toàn trị ở VN!
Làm theo tiếng gọi của lương tâm và mệnh lệnh của trí tuệ!
Trong lịch sử thì 63 năm không là bao, nhưng trong chính trị thì 63 năm là một thời gian quá dài cho một dân tộc, nhất là khi chế độ toàn trị đã đi trái với quyền lợi nhân dân và đi ngược với trào lưu của thời đại. Ở các nước DCĐN cùng lắm người dân chỉ phải chịu đựng một tổng thống tồi từ 8-10 năm là có quyền thay thế bằng các cuộc bầu cử dân chủ tự do!
Khi một chế độ đã sai lầm, những người cầm đầu thoái hóa về đạo đức và bất tài trong việc giải quyết những bức xúc của nhân dân, không những thế lại còn sử dụng mọi mánh khóe xảo quyệt đàn áp nhân dân để bảo vệ các quyền lợi bất chính thì việc chống lại chế độ này và từ khước không tuân theo mệnh lệnh của nhóm cầm đầu là tiếng gọi của lương tâm và mệnh lệnh của trí tuệ đối với mọi công dân, mọi thành phần trong xã hội.
Tùy theo hoàn cảnh và vị trí của mỗi người, mỗi giới hay tổ chức -ở trong nước cũng như hải ngoại- có thể thực hiện cuộc đấu tranh bằng những cách khác nhau phù hợp với những điều kiện của mình. Miễn là cùng nhau giữ vững mục tiêu chung và phương pháp tranh đấu chung là dùng phương cách phi bạo lực để thay đổi chế độ độc tài toàn trị bằng một thể chế dân chủ đa nguyên đã được thực hiện thành công ở nhiều nước và nhờ đó khiến cho nhân dân các nước này đã thực sự có đời sống no ấm, hạnh phúc, nhân phẩm và các quyền tự do dân chủ được tôn vinh thực sự, trở thành những nước văn minh tiên tiến. Mỗi người và mỗi đoàn thể hãy vận dụng trí thông minh và lòng dũng cảm chống bạo quyền, chống quan tham, chống nhượng bộ lãnh thổ và tài nguyên cho Bắc kinh, đòi quyền được hưởng lương bổng xứng đáng, được sống có nhân quyền và nhân phẩm, tự do tôn giáo và báo chí, đòi được quyền tự quyết định một thể chế chính trị và nhân sự của một chính quyền tương lai của VN!
Trên 60 năm qua dân tộc ta đã phải hi sinh rất nhiều, mấy triệu người đã vùi thây với một niềm tin tưởng và kì vọng sẽ có một chế độ dân chủ thực sự và một tầng lớp lãnh đạo vừa có tư duy sáng suốt và đạo đức gương mẫu. Không có ai mong rằng sự hi sinh và lòng tin tưởng của mình đã bị phản bội một cách trắng trợn như hiện nay!
Tiếng nói của các nhà văn và thi sĩ tên tuổi nhiều khi thường diễn tả rất đúng tâm trạng nhân dân của thời dại. Vì thế những cảm xúc và tâm tư của họ về xã hội đương thời còn là tiếng gọi của lương tâm của cả một dân tộc. Thi sĩ Bùi Minh Quốc đã từng vào sinh ra tử cho chế độ toàn trị, nhưng gần đây ông đã nhìn rõ lòng dạ và bản chất của nhóm lãnh đạo đương thời đã phản bội đồng chí và nhân dân như thế nào, cho nên Bùi Minh Quốc đã gói gém tâm sự trong bài thơ „Các Anh tháng Tám đâu rồi“ 17] với những câu :
„Có lẽ nào? Có lẽ nào?
Lịch sử lại như con thò lò trong ván bài quỉ dữ.
Máu nhân dân tuôn chảy đúc ngai vàng!
Bạo chúa ngồi lem lẻm tụng nhân dân!“
Nay chính Bùi Minh Quốc đang dấn thân và kêu gọi mọi người cùng nhập cuộc:
„Sống trong tôi là triệu người đã khuất,
Đang thét đòi món nợ tự do!“
Các người dân chủ, các tổ chức chính trị, tôn giáo, trí thức và chuyên viên, các nhà báo và các văn nghệ sĩ, nông dân và công nhân –ở trong và ngoài nước- hãy siết tay nhau sáng tạo những phương pháp đấu tranh thích hợp và hiệu quả. Trong dịp kỉ niệm 63 năm Cách mạng Tháng 8 các đảng viên CS, bộ đội và công an biết giữ tư cách và tự trọng hãy nhìn thẳng vào những người đang đứng đầu các cơ quan của đảng, chính phủ từ trung ương tới địa phương để biết họ, gia đình và vây cánh đã làm những gì để trở thành những triệu phú Dollar dễ dàng và nhanh chóng như vậy; trong khi hàng bao nhiêu triệu đồng bào vẫn phải cam chịu trong nghèo đói và bị đàn áp! Chả lẽ bao nhiêu triệu đồng đội, bạn hữu của mình đã hi sinh để dựng lên một chế độ chỉ gồm các bạo chúa!
Tất cả người Việt yêu nước ở trong và hải ngoại, tất cả các đảng viên CS biết giữ tư cách và tự trọng hãy đứng lên đấu tranh cương quyết và sáng suốt để chuyển hóa chắc chắn và mau chóng chế độ toàn trị sang một thể chế dân chủ đa nguyên, sớm đem lại dân chủ và tự do cho nhân dân, phú cường cho đất nước![18]
Đây là tiếng gọi của lương tâm và mệnh lệnh của trí tuệ! Vì bạo ngược đã ngự trị quá lâu! Dân ta đã bị đày ải và nghèo khổ không thể nào kể xiết! 63 năm độc tài chuyên chính của các bạo chúa đã quá dài, cần phải chấm dứt ngay!
--------------------------------------------------------------------------------
Ghi chú:
[1] . Nguyễn Quang Thiều, trong cuộc nói chuyện giữa TBT Nguyễn Anh Tuấn với hai nhà thơ và nhà báo Nguyễn Quang Thiều và Trần Đăng Khoa nhân dịp kỉ niệm 63 năm CMT8 „Tôn trọng dân để đánh thức, khai mở sức mạnh dân tộc“, Vietnam Net 20.8
[2] . Mai Chí Thọ, trong ý kiến phát biểu của các đồng chí „Cách mạng lão thành“ về „dự thảo báo cáo“ phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân vì „dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh“ cuối 2002, trong tạp chí Dân chủ & Phát triển (DCPT) số 28, 6.04,tr. 44-52
[3] . Nguyễn Minh Triết: „Bỏ Điều 4 Hiến pháp…là tự sát“!, trong DC&PT số 34, 10.07, tr. 66-67
[4] . Đặng Quốc Bảo, Về xây dựng đảng, trình bày ngày 18.7.03 trong cuộc họp của Hội đồng Lí luận Trung ương mời các „Cách mạng lão thành“ , DC&PT số 28, 6.04, tr. 59-67
[5] . Hoàng.Tùng, Thời đại mới, tư tưởng mới! Thử suy nghĩ về tiền đồ chủ nghĩa Mác, Hà nội 2000, trong DC&PT 30, 7.05, tr. 7
[6] . Võ Nguyên Giáp, tham luận „Đại thắng mùa xuân 1975- Bản lĩnh và trí tuệ VN“ được tổ chức trong 2 ngày 14 và 15.4.2005 tại dinh Thống nhất, Cộng sản điện tử 14.4.05
[7] . Nghị quyết của BCT về tam nông, trong Quân đội Nhân dân 16.8; Nguyễn Sinh Hùng, Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong Nhân dân (ND) 23.8
[8] . Trần Bạch Đằng, trong ý kiến phát biểu của các đồng chí „Cách mạng lão thành“ về „dự thảo báo cáo“ phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân vì „dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh“ cuối 2002, trong tạp chí Dân chủ & Phát triển (DCPT) số 28, 6.04, tr. 44-52.
[9] . Nghị quyết của BCT về thanh niên và trí thức, trong Sài gòn giải phóng 16.8; Tô Huy Rứa, Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ND 21.8
[10] . Võ Đắc Danh, Người kể chuyên nông dân, Tuổi trẻ (TT) 22.8.
[11] . Lê Khả Phiêu, Chống tham nhũng: Phải tự xem lại bản thân mình!“, TT 25.5.05
[12] . Mai Chí Thọ, như trên
[13] . Võ Nguyên Giáp, Kiểm điểm vụ PMU18 và báo cáo Đại hội X, TT 13.4.06, www.dcpt.org
[14] . Bùi Thanh, TT 13.5
[15] . Bản điều trần 7 điểm của tướng Võ Nguyên Giáp, DC&PT số 28,6.04, tr.53-58
[16] . Võ Nguyên Giáp, như trên
[17] . Bùi Minh Quốc, Các Anh Tháng 8 đâu rồi, DC&PT số 29, 12.04, tr. 12
[18] . xem Âu Dương Thệ, Dự án về một sách lược chung trong giai đoạn chuyển tiếp: Những người DCĐN hãy thống nhất sách lược và hành động để thắng độc tài toàn trị!, trong DC&PT số 34, 10.07, trang 5-18 và http://www.dcpt.org/ , mục thời sự 2007.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment