Tuesday, September 2, 2008

MỖI NĂM TỚI NGÀY 2 THÁNG 9 LẠI NHỚ TỚI QUỐC TẶC HỒ CHÍ MINH

MƯỜNG GIANG



Trong bốn người liên hệ tới việc xuất dương, chỉ có Nguyễn Tất Thành tức Hố Chí Minh ra đi năm 1911, là tự nhận mình tìm đường cứu nước. Trước đó, qua bộ máy tuyên truyền của đảng cũng như chính Hồ viết sách để ca tụng và huyền thoại cuộc đời mình, làm cho nhiều người nhẹ dạ không muốn tin cũng phải gật đầu chấp nhận, vì hồi đó chẳng biết đâu mà mò. Nhưng vào tháng 2-1983 có hai sử gia VN: tiến sĩ Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu, đã công bố khắp thế giới, một tài liệu vô cùng quan trọng tại văn khố Pháp duy nhất liên quan tới giai đoạn 1911 của Nguyễn Tát Thành.

Ðó là hai lá thư xin nhập học Trường Thuộc Ðịa (Ecole Coloniale) viết ngày 15-9-1911 và một lá viết tại New York ngày 15-12-1912. Ðiều này chứng tỏ rằng Nguyễn Tất Thành, bỏ nước ra đi chỉ với mục đích tìm đường làm quan để giải quyết chuyện cơm ăn áo mặc của riêng mình, chứ không hề có ý định cứu nước giúp dân như Trần Dân Tiên từng viết sách ca tụng.

Ngoài ra đã có thêm nhiều bí mật được bật mí, nhờ đó mọi người mới biết được là gần suốt cuộc đời của Hồ, hầu như chỉ sống bằng nghề tình báo cho KGB, phục vụ cho đệ tam quốc tế mà thôi. Cho nên sau này mọi người cũng không lấy làm lạ trước những sự kiện của đảng Cọng Sản Ðông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, ưu thế và địa vị của Hồ Chí Minh từ năm 1930 cho tới cuối năm 1944, trong đảng rất mù mịt vì Hồ thật sự đâu có làm gì.

Cũng theo sử liệu, lãnh đạo đảng lúc đó là những tên tuổi Ðặng Xuân Khu, Nguyễn văn Cừ, Lê Ðức Thọ, Văn Tiến Dũng.. nên mãi tới hội nghị đảng lần thứ VIII, họ Hồ vẫn chưa có một danh vị đảng. Theo Lê Quảng Ba viết trong Hồi ký Ðầu Nguồn, tiếng nói của nhóm cán bộ lưu vong tại hang Pắc Pó trong thời gian 1941-1944, Hồ Chí Minh từ Nậm Quang chính thức dời về đóng trụ ở biên giới Hoa-Việt, để dạy lớp cán bộ. Lớp học kết thúc ngày 26-1-1941 nhưng đã bế tắc vì Hồ không đủ uy tín để tổ chức được một chiến khu nào tại miền xuôi. Bởi vậy mới thấy tới ngày 22-12-1944, Võ Nguyên Giáp mới lập được Ðội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân, tại rừng Trần Hưng Ðạo, Huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, chỉ có 34 người, hầu hết là Nùng, Thổ bản địa.

Nhưng Hồ là người may mắn, từ thuở nhỏ đã được các quí nhân tại Phan Thiết như Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang làm vang danh tại trường Dục Thanh. Sau đó qua Pháp, được Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền góp chữ và uy tín, đưa Bồi Ba tức Nguyễn Tất Thành bước vào con đường chính trị, báo chí thế giới qua danh xưng của nhóm là Nguyễn Ái Quốc mà Hồ tiếm đoạt làm của riêng mình.

Rồi từ hang Pắc Pó trở lại Tàu, may mắn bị quân Trung Hoa Quốc Gia bắt. Từ đó qua bảo đãm của Nguyễn Hải Thần cùng Vũ Hồng Khanh trong Việt Nam Quốc Dân Ðảng, với chủ tướng Trương Phát Khuê, họ Hồ chính thức sắm thêm vai gián điệp tình báo cho quân đội Ðồng Minh, qua Ðệ Tứ Chiến Khu Hoa Nam, sau khi được trả tự do ngày 16-3-1946, theo như tài liệu của Michael Maclear viết trong ‘The Ten Thousand Day War Việt Nam (1945-1975), xuất bản tại New York năm 1981.

Cũng từ đó, qua vai trò điệp viên tình báo quốc tế thuộc các cơ quan KGB, Trung Cộng, Trung Hoa Dân Quốc, rồi do Charles Fenn giới thiệu, lại trở thành điệp viên chính thức của OSS tức là Office of Strategic Services, tiền thân của cơ quan Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ ( CIA), làm việc dưới quyền Thiếu Tá Mỹ Archimedes Patti, đặc trách chiến trường Ðông Dương. Nhờ đó, Hồ bước qua hết các xác chết cản đường trong đảng, để ngày 2 tháng 9 năm 1945, nghênh ngang võng lọng về Hà Nội nhận chức chủ tích nước và đọc tuyên ngôn độc lập. Ðó là tất cả quá trình xuất dương cứu nước của anh thanh niên Nguyễn Tất Thành.

Qua câu chuyện trên nhiều người đã thở dài khi nghĩ rằng, phải chi Nguyễn Tất Thành được nhận vào trường Thuộc Ðịa, thì với bản chất lưu manh xảo quyệt như vậy, cùng lắm Hồ chỉ là một tham quan Việt gian làm tay sai cho Pháp mà thôi. Nhờ đó đất nước và dân tộc Việt Nam ngày nay có thể thoát được nổi trường hận cùng khốn tận tuyệt dưới bàn tay tàn độc cũa một Hồ Chí Minh làm tay sai cho các thế lực quốc tế, từ Liên Xô, Trung Cộng, Pháp, Tàu Trắng và Hoa Kỳ.



1- NGUYỄN TẤT THÀNH, CON NGƯỜI TRĂM MẶT :

Nhiều năm sau ngày ‘bác’ lên ngai Chủ Tịch nhà nước, người ta mới biết được cái tên Hồ Chí Minh, chỉ là một trong hằng trăm tên của Nguyễn Sinh Cung hay anh thanh niên thầy giáo Nguyễn Tất Thành, đã có một thời gian ngắn ngũi dạy học tại trường Dục Thanh Phan Thiết, trước khi rời Bến Nhà Rồng ở Sài Gòn qua Pháp tìm đường cứu nước. Theo các sử gia cũng như các nhà biên khảo nghiên cứu trong và ngoài nước, thì cho tới nay vẫn chưa ai biết hết tất cả các bí danh của Nguyễn Tất Thành. Trước đó, căn cứ vào tài liệu của Liên Xô, thì ‘bác’ có chừng 19 tên. Năm 1982, nhà biên khảo Huỳnh kim Khánh nói ‘người’ có 32 bí danh. Một tác giả Việt Nam khác kiểm kê được 76 tên của Hồ. Nói chung, không riêng gì tên họ, mà cả ngày sinh và tên cúng cơm cũng vô cùng bí mật, không biết đâu mà mò.

Quả thật đây là một con người có nhiều tên nhất trên trái đất, từ cổ tới kim đông sang tây. Do không biết chính xác tên khai sinh khi lọt lòng mẹ là Côn, Cuông hay Cung, vì vậy ta thấy sách vở đã chọn cái tên Nguyễn Tất Thành như là một điểm tựa, nhất là sau năm 1983, ba cái đơn của ‘bác’ bị phát giác làm bể hết mọi bí sử nơi thâm cung của Hồ tặc.

Trong số 100 tên, có lẽ cái tên ‘Nguyễn Ái Quốc’ xuất hiện lần đầu tiên tại Paris là sôi động và đã gây ra không biết bao nhiêu tranh cãi, từ ấy cho đến bây giờ vẫn chưa chấm dứt. Ai cũng biết nói láo và bịa chuyện là bệnh nan y của người cọng sản, nhất là trong rừng sử sách của đảng, nhằm thần thánh hóa lãnh tụ ‘Hồ Chí Minh’. Gạt bỏ những huyền thoại của đảng viết về Bồi Ba, theo các nhà viết sử cho biết tới nay, họ vẫn còn rất mù mờ về giai đoạn của Nguyễn Tất Thành từ năm 1911-1919, ngoài ba chi tiết công khai: đó là Thành làm công trên tàu Latouche-Tréville của hãng Ðầu Ngựa, sống tại nước Anh thời đệ nhất thế chiến (1914-1918) và có mặt tại Pháp qua cái tên Nguyễn Ái Quốc.



+ Nguyễn Ái Quốc và nhóm Trinh-Trường-Truyền :

Trước khi Nguyễn Tất Thành xuất dương, thì Phan Chu Trinh và con là Phan Chu Dật mới 8 tuổi, đã tới Pháp ngày 1-4-1911 với trợ cấp của Chính Phủ Ðông Dương. Từ năm 1912, Phan Chu Trinh kết thân với Phan văn Trường đang theo học Tiến Sĩ Luật tại Paris, nên dọn về ngôi biệt thự của Trường tại số 6 đường Villa des Gobellins. Từ năm 1912, Hồ đã bắt được liên lạc với Phan Chu Trinh tại Pháp qua thư từ, vì hai người đã quen biết nhau từ ngày còn ở Việt Nam, nên Thành vẫn gọi Trinh là ‘Hy Mã Nghị Bá Ðại Nhân’.

Ngày 12-4 tại Thái Bình, các đảng viên Việt Nam Quang Phục Hội của Phan Bội Châu và Cường Ðể, đã ám sát tên Tuần Phủ chó săn Nguyễn Duy Hàn. Tại Trung Hoa, vì nhận tiền của Pháp nên Tổng Ðốc Lưỡng Quảng là Long Tế Quang đã bắt giam Phan Bội Châu và Mai Lão Bạng từ năm 1914 tới năm 1917 mới thả. Vì những biến cố đã xảy ra, ngay khi Ðức tuyên chiến với Pháp ngày 3-8-1914, nhà cầm quyền Ba Lê vin vào đó để bắt giữ và phân tán những yếu nhân trong Hội Ái Quốc Ðông Dương, do Trinh và Trường thành lập. Ngày 15-9-1914, Pháp bắt giam Phan Chu Trinh và Phan văn Trường tại ngục Santé mãi tới tháng 2-1916 mới phóng thích. Từ đó người Pháp cũng cắt đứt trợ cấp cho cha con ông, khiến lâm vào cảnh nghèo đói, nên cả hai mắc phải bệnh lao phổi nặng. Tháng 3-1921, Dật chết tại Bắc Kỳ sau khi hồi hương.

Ðầu năm 1919 đại chiến lần thứ 1 kết thúc với sự bại trận của phe trục Ðức, Áo, Hung, Thổ và Bảo Gia Lợi. Kinh đô Paris của Pháp trở thành nơi tụ hội của các thế lực quốc tế. Tổng Thống Hoa Kỳ là Woodrow Wilson đưa ra chủ thuyết ‘Tự Tri’ và đề xuất việc thành lập Hội Quốc Liên, rất được các nước nhược tiểu ủng hộ.

Tại Nga do Nga Hoàng Nicholas II (1894-1917), đứng về phe Ðồng Minh chống Ðức, nên nước này đã tích cực yểm trợ Nikolai V.I. Lenin (1870-1924) lật đổ vương triều. Ngày 7-11-1917, Lenin và Leon Trotsky đứng chung thành lập chế độ Bolshevik, hay còn gọi là cuộc Cách Mạng tháng mười, mở màn cho cảnh núi sông xương máu trong dòng lịch sử nhân loại, có cả Việt Nam từ đó cho tới nay vẫn chưa chấm dứt. Tháng 3-1919 Lenin lập Ðệ Tam Quốc Tế Cọng Sản để xuất cảng chủ nghĩa vô thần, vô sản khắp năm châu.

Ðây là miếng mồi béo bở mà Lenin trùm đỏ vừa mới nổi lên, dẫn dụ các dân tộc bị trị khắp Á Châu từ Trung Ðông, Ấn Ðộ, Trung Á, tới Trung Hoa và Ðông Dương, lũ lượt kéo về thánh địa Viện Thợ Thuyền Ðông Dương tại Mạc Tư Khoa, để học tập con đường cách mạng vô sản chuyên chính, đánh gục tư bản, tiến nhanh, tiến mạnh lên thiên đàng xã hội chủ nghĩa. Trong nước, nhiều cuộc bạo động chống Pháp, quan trọng nhất là vụ khởi nghĩa của vua Duy Tân cùng các chí sĩ Thái Phiên, Trần Cao Vân tại Huế ngày 3/5/1916. Sau đó là cuộc biểu tình của Phan Xích Long tại Sài Gòn tháng 11-1916 và đặc biệt nhất là sự chiếm đóng tỉnh Thái Nguyên của Ðội Cấn, Lương Ngọc Quyến, Trần trung Lập vào năm 1917 dù thất bại, nhưng vẫn mang nhiều khích lệ tới tuyệt đại dân chúng Việt Nam đang sống lầm than khổ ải dưới ách nô lệ của giặc Pháp.

Trong giai đoạn trăm hoa đua nở Nguyễn Tất Thành bỗng nổi lên như cồn, trong giới cách mạng vô sản Pháp, qua bản ‘thỉnh nguyện thư đòi nhân quyền’ năm 1919, ký tên Nguyễn Ái Quốc, mà công án tới nay đã quy cho Hồ là cướp công của ba nhân vật đã sáng tạo: Phan Chu Trinh, Phan văn Trường và Nguyễn Thế Truyền. Nội dung bản thỉnh nguyện gồm 8 điểm, do một nhóm người An Nam yêu nước chung viết, được tờ báo L’Humanité của đảng Xã Hội Pháp, đăng ngày 18-6-1919 với dụng ý chính trị, dù thực chất chẳng có gì đặc biệt, nếu đem so sánh với sự đòi hỏi người Pháp phải trao trả độc lập hay ít nhất để Việt Nam tự trị của Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể sống lưu vong và Vua Duy Tân đang bị cầm giam ngoài hải đảo.

Dù gì chăng nữa thì đây cũng là một cơ hội vàng ròng với Hồ, vì ít nhiều tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc đại diện cho nhóm người An Nam yêu nước trên đất Pháp, cũng được nhóm người Việt qua Tây đánh Ðức, hồi hương mang về phổ biến trong dư luận lúc đó. Mặt khác, qua chiến thắng của đảng Bolchevik Nga, khiến đảng xã hội Pháp hầu như nghiêng về Ðệ Tam Quốc Tế, vô tình giúp anh thanh niên Nguyễn Tất Thành, lúc đó đang thất nghiệp phải sống nhờ vào sự giúp đỡ của Phan Chu Trinh, bỗng được các chính khách tả phái Pháp chú ý vì tính chất vô sản chuyên chính, nên đã giúp Hồ thoát nạn đói, bằng cách cử ‘bác’ tới học ở Viện Thợ Thuyền Ðông Phương năm 1923. Từ đó Hồ qua bí danh Nguyễn Ái Quốc chính thức là một đảng viên của đệ tam quốc tế cộng sản.



+ Vụ Án Nguyễn Ái Quốc :

Về vụ án lịch sử Nguyễn Tất Thành biếm xưng tên gọi của nhóm Nguyễn Ái Quốc, khi Hồ sống tại Pháp từ 1911-1923, cũng đã được tranh cãi sôi nổi giữa cơ quan tuyên truyền của đảng và nguồn dư luận trong cũng như ngoài nưóc. Ðọc ‘Chủ tịch Hồ Chí Minh-tiểu sử và sự nghiệp’ do đảng ấn hành, tuyên bố là tất cả những bài viết và tranh vẽ trên báo Le Paria số 1, đều của Nguyễn Ái Quốc sáng tạo. Ta biết tờ Le Paria hay ‘Người Cùng Khổ’ do Hội Liên Hiệp Thuộc Ðịa chủ trương, từ số 1 đến số 12 đều do J.B Meyrat làm quản lý. Các số khác từ số 13 về sau do G.Sarotte và Léopol Mesnard chịu trách nhiệm, đặc biệt số 1 ra ngày 1-4-1922 không có một bài nào của Nguyễn Ái Quốc.

Vậy mà Ban Nghiên Cứu Lịch Sử của Trung Ương Ðảng VC, dám tuyên bố ‘bác’, tức là đồng chí Nguyễn Ái Quốc làm quản lý tờ báo này. Ngoài ra cũng trên tờ Le Paria, có nhiều bài viết hay tranh vẽ ký tên Nguyễn Le Patriote, là biệt danh của Nguyễn Thế Truyền và các sinh viên trong Hội Ái Quốc An Nam, thế nhưng Ðảng vẫn tỉnh bơ nhận bừa đó là sản phẩm của Nguyễn Ái Quốc. Riềng bài viết ‘Lên Án Chủ Nghĩa Thực Dân’ được đánh giá là một tài liệu tranh đấu trác tuyệt về nội dung cũng như hình thức. Theo nhận xét, thì lúc đó các nhân vật đấu tranh sống ở Paris, chỉ có Luật Sư Tiến Sĩ Phan văn Trường và Kỹ Sư Nguyễn Thế Truyền mới có đủ khả năng Pháp ngữ cũng như tư tưởng nhận thức để viết được một bài văn tranh đấu nẩy lửa hùng biện như vậy.

Còn Nguyễn Tất Thành mặc dù có sống giang hồ khắp nơi từ 1911-1922 nhưng dù sao trình độ học vấn cũng giới hạn, chỉ viết ba lá đơn xin nhập học mà còn phạm nhiều lỗi chánh tả và văn phạm, thì không thể nào là tác giả của kiệt tác trên. Phương chi, phóng đại vốn là nghề của đảng, tâng bốc để bác vang danh với đời lại càng thêm thần thông quảng đại hơn. Bởi vậy ngày nay, trước những khám phá về việc hoàn toàn bịa đặt một Nguyễn Tất Thành, đại thiên tài, từ một anh thanh niên giáo viên quèn tại một trường làng, một bồi Ba trên tàu viễn dương, đùng một cái nhảy phóc lên làm ông quản lý một tờ báo nổi tiếng, phát hành 5000 số một kỳ, lại còn kiêm thêm họa sĩ và nhà văn... cho tới khi ‘bác’ sang Nga và Tàu từ năm 1923, vậy mà vẫn cứ làm quản lý và viết bài cho báo này tại Pháp cho tới khi báo đình bản. Tất cả đều do Trần Dân Tiên dựng đứng câu chuyện về Nguyễn Ái Quốc, để thần thánh hóa Hồ Chí Minh, mà cả ba tên đều là Nguyễn Tất Thành.

Sự thật ngày nay cho biết, Nguyễn Ái Quốc là tên gọi chung của nhóm người viết trên tờ Người Cùng Khổ (Le Paria), gồm có Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và trong suốt 38 số báo ấn hành, không có một bài nào hay tranh vẽ của Nguyễn Tất Thành nhưng chàng đã láu cá nhận vơ cái tên chung của nhóm là Nguyễn Ái Quốc. Sau đó được cơ quan tuyên truyền của đảng CS hợp thức hoá ‘sáng lập và linh hồn hay quản lý báo’.

Chưa hết, căn cứ theo sử liệu ta biết từ năm 1923-1946, Hồ đã rời Paris đi Mạc Tư Khoa, Tàu trong lúc đó, vào tháng 1/1926 tại Paris đã xuất hiện tờ Việt Nam Hồn bằng chữ quốc ngữ, thỉnh thoảng có các bài bằng Hán và Pháp Ngữ. Từ tháng 9-1929 lại đổi tên là Phục Quốc, do cơ quan ngôn luận của dảng Việt Nam Ðộc Lập tại Pháp ấn hành. Trong một vài số báo, có bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc. Sự kiện lịch sử minh bạch như vậy mà đảng vẫn thản nhiên viết là năm 1923, ‘bác’ tại Pháp trong khi thành lập tờ ‘Người Cùng khổ’ đã kiêm nhiệm thêm tờ ‘Việt Nam Hồn’. Những sự thật thì không ai có thể thêm bớt, bóp méo hay xuyên tạc được. Cho nên những lố lăng về huyền thoại Hồ Chí Minh, ngày nay rốt cục đã trở thành những trận cười trong dân gian, dù nó tồn tại hay bị sóng đời vùi dập.



+ Nguyễn Ái Quốc, điệp viên ngoại hạng của cọng sản quốc tế :

Ngày 15-10-1923 Nguyễn Ái Quốc đại diện cho đảng CS Pháp, tham dự Ðại Hội Nông Dân Quốc Tế, tổ chức tại Mạc Tư Khoa. Cũng kể từ đó, Hồ thoát xác thành một con người cọng sản quốc tế, chỉ biết phục vụ cho nền vô sản chuyên chính mà thôi. Ðể thưởng công, ngoài sự cho báo đảng đánh bóng tên tuổi, chính phủ Liên Xô còn cho Quốc ở lại phục vụ trong thánh địa Ðông Phương Hồng, một tổ chức mặt nổi là của Quốc tế Cọng Sản nhưng bên trong được Cơ Quan Tình Báo Nga (Intercenter ốMainburo) bảo trợ. Theo tổ chức, Ban Phương Ðông lúc đó gồm ba khu vực: Miền Tây Trung Hoa, trụ sở tại Chita, nước Mông Cổ. Miền Viễn Ðông có trụ sở tại Hải Sâm Uy, phụ trách các nước Mãn Châu, Cao Ly, Nhật Bản và Khu Ðông Nam trụ sở tại Thượng Hải, gồm miền Hoa Nam và các nước Ðông Nam Á đang là thuộc địa. Ngày 22-1-1924, Lénin chết, Nguyễn Ái Quốc đã làm thơ đăng trên tờ Pravda, khóc thương nức nở và thề trước linh cửu cha già quốc tế, là sẽ biến đau thương thành hành động như thi nô Tố Hửu đã khóc Stalin :



‘Stalin ! Stalin,

Yêu biết mấy, nghe con tập nói

Tiếng đầu lòng, con gọi Stalin

ông Stalin ôi. ông Stalin ôi,

Hởi ôi ông mất, đất trời có không?

thương cha, thương mẹ, thương chồng

thương mình thương một, thương ông thương mười.’

(Ðời đời nhớ ông - Tố Hửu).



Mặc dù tài liệu Ðảng dấu chuyện Hồ xuất thân từ trường Stalin nhưng mới đây thư khố Nga giải mật, bật mí cho ta biết là gần hết cán bộ cao cấp của đảng VC , trong đó có Nguyễn Ái Quốc, đều xuất phát từ lò ‘Viện Thợ Thuyền Ðông Phương’. Trường này được Lenin thành lập ngày 21-4-1921, để huấn luyện các cán bộ cọng sản vùng Châu Á, nên gọi là Viện Phương Ðông. Sau khi tốt nghiệp, những học viên sẽ trở thành cán bộ cách mạng vô sản chuyên chính về mặt lý thuyét cũng như hoạt động móc nối, tuyên truyền và thu thập tin tức từ quần chúng. Tháng 8-1924 Hồ được Ðệ Tam Cọng Sản Quốc Tế, phong chức ‘Uỷ Viên Ban Phương Ðông’, phụ trách Cục Phương Nam coi toàn vùng Ðông Nam Á. Ðể che mắt mật thám Tây Phương, Hồ trở thành ‘Lou’, đặc phái viên của hãng Thông Tấn Nga Rosta, kiêm thư ký, thông ngôn cho phái đoàn Borodin của Liên Xô, tại Quảng Châu, qua bí danh Lý Thụy.

Trước khi Hồ tới, Borodin đã móc nối được cả hai phe Trung Hoa Quốc Dân Ðảng của Tôn Văn, Tưởng Giới Thạch và Ðảng CS. Trung Hoa ngồi lại với nhau, dưới ảnh hưởng của Liên Xô. Do trên, có một số cán bộ cao cấp của Ðảng CS. Trung Hoa như Mao trạch Ðông đã được bầu vào Ban Chấp Hành trung Ương Quốc Dân Ðảng. Trường Võ Bị Hòang Phố, do Nga bảo trợ khai giảng ngày 15-6-1924 do Tưởng Giới Thạch làm Giám Ðốc, còn Chu Ân Lai phụ trách chính tri. Nhưng một biến cố cực kỳ quan trọng đã xảy ra tại Quảng Châu, trong buổi lể kỷ niệm lần thứ 13 cách mạng Tân Hợi (10-10-1911), làm nhiều người cả hai phe thương vong, đồng thời đã khiến Tôn Dật Tiên tỉnh mộng, nên ông bỏ lên Bắc Kinh để hợp bàn chuyện thống nhất đất nước và kêu gọi tình hữu nghị Hoa-Nhật, khiến Liên Xô thất vọng vì kế hoạch bị đổ vỡ nửa chừng.



+ Nguyễn Ái Quốc giả chết để khai sinh Hồ Chí Minh :

Cũng trong chuyện dài về Nguyễn Tất Thành-Hồ Chí Minh, huyền thoại đáng kể nhất là vụ Nguyễn Ái Quốc chết trong nhà tù Hồng Kông vào cuối năm 1932, vì nghiện thuốc phiện và bị bệnh lao. Vụ này trước sau, từ Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng, Võ Nguyên Giáp cho tới cơ quan tuyên truyền của VC, đều nói là do Pháp phao tin để làm hạ uy tín Hồ. Riêng vợ luật sư Frank Loseby, người được Cọng Sản Quốc Tế mướn để biện hộ cho Hồ, sau năm 1969 khi ‘bác’ chết, đã nói tin đó là có thật, và do chính chồng bà ta tung ra, để đánh lạc hướng mật thám Pháp.

Cuối cùng theo các sử gia, việc Nguyễn Ái Quốc ‘giả chết’ đều theo ý Liên Xô, nhằm phục vụ nhu cầu chính trị. Với Nga, Nguyễn Ái Quốc chết mới có cơ hội đưa các cán bộ khác lên thay thế và gầy dựng lại đảng VC đã bị tan tác. Với Tây Phương, khai tử con người cọng sản quốc tế chuyên nghiệp, để một bí danh mới của Nguyễn Tất Thành đóng vai điệp viên tam trùng, đang cần thiết tại mặt trận Viễn Ðông sắp tới. Tất cả đều nằm trong vòng bí mật và có lẽ chẳng bao giờ tình báo Nga, chịu mở hồ sơ vụ trên, dù Hồ đã chết thật từ lâu rồi.



2 -TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH :

Căm thù xã hội vì cha là Nguyễn Sinh Sắc, uống rượu đánh chết ngươi nên bị bãi quan tại Binh Ðịnh. Vì vậy Nguyễn tất Thành làn mò vào Phan Thiết sống nhờ qua sự đùm bọc của Hồ Tá Bang, Trương Gia Mô và mấy người con của Nguyễn Thông một thời gian ngắn. Năm 1911, Thành sang Pháp nhờ làm bồi trên tàu Latouche Tréville.

Sau khi gia nhập đảng cọng sản Pháp, tháng 5-1923 Nguyễn Ái Quấc (tên mới của Nguyễn tất Thanh) sang Nga và bắt đầu một cuộc đổi đời về vật chất, cũng như được quan thầy Nga, huấn luyện dạy dỗ, trở thành một điệp viên cọng sản quốc tế. Rồi Hồ được lưu lại công tác tại Bộ Phương Ðông, phụ trách vấn đề các nước thuộc địa. Theo Hồng Hà, lúc đó Hồ được ở trong khách sạn Luych, lương tháng bảy Tchervonetz, tương đương với bảy chục đồng Rúp vàng hoặc 50 gam vàng. Trong lúc đó, tại Nga nạn đói đang diễn ra thê thảm, khắp cả nước giặc giã loạn lạc triền miên.

Thế nhưng đảng cọng sản Nga lại cưng chiều Hồ, với thực phẩm ê hề tiền nong đầy đủ, và chỗ ở thì đông vui nhất. Hèn chi Hồ đã sớm trở thành tên phản quốc số một của thời đại, suốt đời chỉ biết trung kiên và phục vụ cho chủ mà thôi. Chính nơi thiên đàng này, Hồ cho biết là mình đã được giác ngộ, hạnh phúc nên đã coi đây mới chính là quê hương và tổ quốc đích thực của mình. Cũng tại đây, trong ngày quốc tế Lao Ðộng 1-5-1924, Hồ theo lệnh thượng cấp, đến nói chuyện trước đám đông trong cuộc biểu tình, dưới một biểu ngữ màu đỏ, để tang cho LêNin. Cũng theo Hồng Hà, Hồ đã hứa là sẽ đem Lá Cờ Búa Liềm của Liên Xô, cũng như chủ nghĩa xã hội của Ðệ Tam Cọng Sản Quốc Tế, về cấm tại tổ quốc VN và Y đã thực hiện đúng lời cam kết trước vong linh của LêNin.

Từ bản chất mặc cảm đói nghèo, Hồ xuất đương qua động cơ thúc đẩy là kiếm sống và vươn lên trong xã hội, nên chúng ta sẽ không lấy làm lạ về chuyện Hồ nộp đơn xin vào học miễn thi tại trường thuộc địa Pháp hay xin Khâm Sứ Trung Kỳ cho cha là Nguyễn Sinh Sắc một chức quan nhỏ, để kiếm cơm nuôi miệng. Sống ở Nga trong suốt thời kỳ biến động, trời long đất lở, có lúc tưởng chừng chế độ Bonsovich sẽ bị tan tành. Nhưng chính hoàn cảnh đó, lại trở thành thân quen , đáp ứng đầy đủ ý thức nô lệ của một con người ôm đấy khát vọng, đã dạy cho Hồ những mô thức xã hội tương lai, rập khuôn theo Liên Xô, qua vấn đề thiếu nhi và nghệ thuật khủng bố của KGB.

Thật vậy ở Liên Xô, thiếu nhi ngay từ thuở nhỏ đã được đảng giáo dục và huấn luyên biết căm thù, yêu, ghét theo mệnh lệnh. Ðây là chuyện mà Hồ thích nhất và đả đem nó về trồng người tại VN. Sau này chính đó, là thủ phạm trong mọi tội ác, mà đầu tiên là vụ án ‘ cải cách ruộng đất’ long trời lở đất tại đất Bắc, khi Hồ làm chúa nơi này. Tiếp theo là việc đem cấy ý niêm hận thù và đấu tranh giai cấp , được coi như kim chỉ nam trong đạo lý cách mạng. Chính hai chủ trương độc hại này qua cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh, suốt bảy mươi lăm năm qua , đã phá vỡ truyền thống tu thân, trị quốc và đạo đức ngàn đời của quốc dân Hồng Lạc, làm băng hoại xã hội, gia đình và nhân cách của con người VN, từ khi đảng cong sản , được Hồ đem từ Liên Xô về.

Cũng kể từ đó, người Việt sống dưới chế độ cọng sản miền Bắc và cả nước từ sau tháng 4-1975 theo đề cương văn hóa, được đảng giáo dục , cách yêu, cách ghét, cách sống và làm việc, đã không còn là một con người, mà là những công cụ phản ảnh chính sách của đảng. Tóm lại, chính Hồ đã làm cho văn hoá và lịch sử VN vong thân, từ khi Y chính thức trở thành một tên nô lệ chủ nghĩa ngoại bang. Cũng vì vậy mà nay dù to mồm lắm miệng nói đổi mới, với cảnh phồn hoa giả tạo khắp phố phường, nhưng trong tận cùng, người dân nhất là ngư, nông, tầng lớp lao động ở mọi miền đất nước, đời sống tinh thần và vật chất , có hơn gì thời Pháp thuộc ? người vẩn nguyên là thân phận của trâu, ngựa, có khác chăng khi trước kẻ cưỡi, người chăn là thực dân da trắng, ngày nay, chủ được thay thế là những tên tư bản đỏ mà sự bốc lột bạo tàn, gấp trăm nghìn lần kẻ thù xưa củ. Ðó cũng là nhờ tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đạo.

Tại VN vào những năm của thập niên 20, thành phần xã hội tuy đang trong thời kỳ Pháp thuộc , nhưng hoàn toàn không giống xã hội Liên Xô, đang sống dưới chủ trương ‘ vô sản hóa kiểu Bônsôvich - Stalinnit’, mà nhu cầu của Stalin lúc đó, là phải loại bỏ những thành phần trí thức, tiểu tư sản , công nông có học.. từng theo LêNin, trong cuộc cách mạng tháng 10-1917. Nhưng do nhu cầu đạt lòng tin của chủ, Hồ Chí Minh nhân danh quốc tế cọng sản, ra lệnh cho VC , thi hành chủ trương ‘ Vô sản hóa rập khuông, theo kiểu Stalinnit ‘ thì quả là tư tưởng Hồ Chí Minh siêu tuyệt.. Do trên, khi Hồ kêu gọi lập đảng VC, Y đã tuyên bố thẳng thừng :’ đảng cọng sản VN là đảng vô sản ‘ thế nhưng giờ đây, các chóp bu trong đảng đều là những tỷ phú tư bản , có tên trong tóp những người giàu nhất thế giới đương thời. Chính những tên tư bản đỏ này, mới đích thực là chủ nhân ông của hầu hết các cơ sở đồ sộ hiện nay tại hải ngoại, nên dù có lấy vải thưa che mắt thánh, thì cũng đâu dấu được ai..

Tóm lại đây chỉ là những nét khái quát về một phần đời hoạt động của Hồ, trong quốc tế cọng sản, qua những thay đổi theo thời gian của VC, nhưng từ đó cho ta thấy cái được gọi là khuynh hướng dân tộc, trong lòng đảng cọng sản VN,chỉ là một ảo vọng ,vì dưới lăng kính lịch sử, không hề có thể xảy ra. Tất cả giờ đây đã gần như hiện nguyên hình, xác nhận Hồ cùng đảng cọng sản VN chỉ là quan hệ chủ tớ, trong một giai đoạn mà Nga-Tàu bành trướng chủ nghĩa khắp Ðông Nam Á và cũng từ đó, qua cái gọi là tư tưởng HCM, đã nói lên sự nghiệp vĩ đại làm tay sai cho ngoại bang của Hồ và đảng VC trong suốt 75 năm qua.

Thảm ghê cho cả một thế hệ chỉ vì bị tư tưởng HCM mê hoặc, mà một đời phải tủi thân, ăn năn không đủ. Ôi:’



- Ðôi dép râu đạp tan đời son trẻ

Mũ tai bèo khép kín nẻo mộng mơ

Nam Kỳ khởi nghĩa, tiêu Công Lý

Ðồng Khởi vùng lên, diệt Tự Do.



Nay qua dòng thế sự, góp nhặt những chuyện đời, để rồi thầm thì kể lại cho thế gian vui. Nguyễn Du đã ôm bộ ngực gầy xương giữa trời lộng gió, trên đỉnh Hồng Lĩnh nhưng muôn đời sau, người ta vẫn tìm đến với thi nhân, để cùng cảm thông chung manh áo lạnh. Trong cuộc đời thường nhân thế, đôi vợ chồng nào cũng có lúc rúc rích trong hơi nồng ấm rồi ngồi bên nhau trước lò bánh căn thơm lừng hương gạo mới, vừa ăn vừa run trong cái lạnh bất chợt của những ngày sang mùa tại Phan Thiết. Ðường vào lịch sử Hồng Lạc cũng vậy, giống như ba thế kỷ nối dài của Bình Thuận, từ một vùng le te vài ba chục Làng Chàm, lau sậy hoang vu nhưng có đầy những thần cây đa ma gốc gạo, trong Thuận Trấn, sau đó con người phải dùng xương máu làm thảm lót đường bước vào tạo dựng, mới mọc lên một cõi thênh thang phường phố lâu đài.

Hưng thịnh, tồn vong, thảo khấu hay là chính thống, đều không qua khỏi những dòng chữ đá trên bia sử. Cho nên ngày nay, ta đọc câu chuyện sử về người trăm mặt Nguyễn Tất Thành, cũng chẳng qua chỉ đọc lại những câu chuyện kể về vận nước, mệnh người khiến cho đời được dời đổi, khen chê, xưng tụng. Xuôi nam hay ngược bắc, trong gió ngàn bay, nhìn ra biển lộng, đâu đâu cũng thấy chiến thuyền của chúa Nguyễn căng buồm lướt sóng hay vó ngựa chân voi dồn dập của người anh hùng Nguyễn Huệ danh trấn non sông. Nhưng rồi ngao ngán biết bao, khi lạc đường vào lịch sử, để phải đọc những huyền thoại gian dối của ‘bác’, làm cho hồn vừa giận vừa cười

Quả thật, trong dòng lịch sử VN, lôi hết những đại gian hùng giết vua phế chúa như Trần Thủ Ðộ, Hồ Quý Ly, Mạc Ðăng Dung, Trịnh Kiểm, Trương Phúc Loan, Phan Khắc Hoè.. đem so sánh, thì chỉ bằng một cọng râu lơ thơ của Hồ mà thôi. Cũng nhờ những câu chuyện về Nguyễn Ái Quốc giả chết hay sự bặt tin của Lý Thụy, mãi cho tới khi sắp mở màn thế chiến thứ hai, Nguyễn Tất Thành mới được tái sinh qua cái tên Hồ Chí Minh từ năm 1939 cho tới bây giờ, chung cuộc chỉ là một màn kịch, diễn về một con người tầm thường nhưng được nổi nhờ cơ duyên và sự phô trương vô tiền khoáng hậu.

Hiện nay các sử gia đều đặt nghi vấn, về câu hỏi là tại sao đồng loạt các cán bộ cao cấp của Ðông Dương Cong sản đảng từ Mạc Tu Khoa về, trong đó có Lê Hồng Phong tự dưng bị lộ, và kẻ chỉ điểm theo mật thám Pháp là một liên lạc người Hoa? Một điều khác cũng rất quan trọng, đó là tài chính dùng nuôi quân, nhưng Hồ đã ôm trọn, khiến cho Hoàng văn Hoan, Vũ Anh và nhiều kẻ khác, đói đến độ phải nhờ vào người Quốc Gia mà sống.

Ðây cũng chỉ là một phần nhỏ, tóm lược về cuộc đời của Nguyễn Tất Thành, qua huyền thoại ‘xuất dương’ tìm đường cứu nước, một con người trăm tên, trăm mặt, thay đổi hình dạng và thủ đoạn chính trị, đâu có khác gì loài tắc kè xanh xanh đỏ đỏ.

Bởi vậy đâu có ai còn dại để tin khờ vào những hứa hẹn của cọng sản,nhất là đoàn kết, hòa hợp và góp máu cứu nước.



Xóm Cồn Ha Uy Di

ngày 2-9-2008

MƯỜNG GIANG

No comments: