Tàu xâm lăng Hán hóa VN - DKH
- TauXamLangHanHoaVN2.pdf !!!!!
...
VI-5/ Hình Thức Tân Thái Thú (Mặt Chính Trị)
Nhóm lãnh đạo Bắc Kinh ý-thức rõ rệt nền kinh tế của Trung Cộng có phát-triển nhanh chóng thì những bất ổn âm-ỉ trong xã hội sẽ giảm đi. Đây chính là điều mà Trì Hạo Điền cựu bộ trưởng quốc phòng kiêm phó chủ tịch đảng Cộng sản Tàu đã tuyên bố với các cán bộ cao cấp: “Bao lâu nền kinh tế của nước Tàu được phát triển, dân chúng sẽ ủng hộ và yêu mến đảng Cộng sản.
Trong khi phát triển kinh tế, chúng ta phải chuẩn bị chiến tranh đối đầu với Mỹ để bảo đảm rằng kinh tế phải tiếp tục phát triển. Để bảo đảm thế kỷ 21 là thế kỷ
của người Tàu lãnh-đạo thế-giới...”
Trung Cộng đã tạo thành một khối chống Hoa Kỳ tại diễn đàn thế-giới, quan trọng nhất là Liên Hiệp Quốc cũng như các diễn đàn khác trong vùng Á châu, Phi Châu... Từ đó thách-thức quyền lãnh đạo của Hoa Kỳ trên thế giới, rồi làm suy yếu điạ vị siêu cường của Hoa Kỳ đề Trung Cộng có thể thay thế.
Dùng những nước châu Mỹ La Tinh, cận kề Hoa Kỳ làm ổ hoạt động tình báo, kể cả khủng bố cần thiết để đe dọa an ninh Hoa Kỳ. Khi đụng-độ trực tiếp với Hoa Kỳ, Trung Cộng có thể dùng một số nước Nam Mỹ làm tiền đồn tấn công trực-tiếp Hoa Kỳ.
Yểm trợ các nước khủng-bố đàn em ghét Hoa Kỳ ở Trung Đông như Syria. Iran, nhóm Hamas để gây bất ổn trong vùng làm Hoa Kỳ sa lầy, kiệt sức không đủ mạnh tay chặn đà bành trướng của Trung Cộng trong vùng Thái Bình Dương.
Dùng các nước trong vùng Đông Nam Á, Nam Á, Trung Á như là một tiền đồn an ninh cho Trung Cộng.
Dùng các căn cứ quân sự của Trung Cộng tại các xứ này để bảo vệ cho việc vận chuyển dầu hỏa từ ngoại quốc về Trung Cộng trong lúc hòa bình, ngược lại sẽ là những căn cứ tiếp liệu khi có chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng.
Vùng Đông Nam Á, nơi có dân số đông, tài nguyên nhiều, Trung Cộng lại có sẵn đạo quân thứ 5 là những doanh thương Tàu nắm quyền kiểm soát kinh tế điạ phương. Tại các nước này, tùy theo tình hình mỗi nước, các tòa đại sứ Trung Cộng trực tiếp chỉ đạo hay ngấm ngầm cho những mục đích ngắn hạn và dài hạn của Trung Cộng.
Việt Nam là một nước mà Trung Cộng muốn thôn tính nhất bằng mọi giá, vì Việt Nam là chốt ngăn duy nhất của dòng Bách Việt còn sót lại để chế ngự sức bành trướng của Trung Cộng xuống phương Nam.
Thời cơ may-mắn cho Trung Cộng là vào năm 1991, khối Liên Sô sụp đổ, nhóm lãnh đạo Hànội mất chỗ dựa, bèn cúi đầu làm tay-sai cho Trung Công để bảo toàn đảng và quyền lợi. Đây chính là hình thức không cần thái thú từ Trung Cộng gửi qua cai trị Việt Nam mà dùng ngay bọn lãnh đạo Việt làm tay sai cho Trung Cộng (Tân thái thú).
Những việc làm phản bội đất nước của bọn “tân thái thú” như:
- Cho phép dân Trung Cộng tha hồ đi khắp Việt Nam mà không cần chiếu khán.
- Trung Cộng ra lệnh cho bọn tay sai ở bộ chính trị cộng sản Việt Nam làm xa lộ Trường Sơn để Trung Cộng lập các căn cứ quân sự kiên cố trong các hang núi cho chuẩn bị chiến tranh. (Biết đâu các căn cứ này chính là nơi đầu não Bắc Kinh trú ẩn để phòng khi Trung Cộng bị Hoa Kỳ oanh tạc. Lãnh đạo Bắc Kinh nghĩ là Hoa Kỳ không ngờ họ lại trú ẩn ở vùng Trường Sơn chứ không phải tại một căn cứ bí mật nào đó trong hầm núi ở nội điạ nước Tầu mà Hoa Kỳ đã chấm sẵn tọa độ oanh tạc). Xa lộ Trường Sơn này Trung Cộng có thể di chuyển quân nhanh chóng từ vùng Hoa Nam (tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây) đi qua Việt Nam, lào, Campuchia xuống tận Thái Lan.
- Trung Cộng buộc cộng sản Việt Nam xây hơn 10 cây cầu bắc qua sông Hồng để tiện cho Trung Cộng đổ quân tràn khắp Việt Nam khi cần thiết. Trung Cộng viện trợ cho VC lập đường sắt chạy từ thành phố Côn Minh tỉnh Vân Nam nối tới Hànội để tiện việc buôn bán hay chuyển quân và vũ khí qua Việt Nam khi cần thiết.
- Trung Cộng yểm trợ tối đa cho chính quyền quân phiệt Miến Điện, đổi lại cho Trung Cộng mở xa lộ nối liền Vân Nam với Miến Điện. Năm 1989, Trung Cộng cung cấp cho chế độ quân phiệt Miến Điện 1.4 tỷ đôla vũ khí, đổi lại Miến Điện cho Trung Cộng sử dụng hòn đảo Hangyi ở ngoài khơi vịnh Bengal, tiếp cho Trung Cộng đặt một trạm kiểm thính trên đảo Grand Coco ở phía bắc của quần đảo Andaman của Ấn Độ trong Ấn Độ Dương để Trung Cộng dùng vào việc tình báo, kiểm soát và theo dõi những hoạt động của Ấn Độ và Hoa Kỳ trong vùng Ấn Độ Dương.
- Để tạo thế đứng chiến-lược trong vùng, biến vùng này thành sân sau của Trung Cộng và sau đó là bao vây Ấn Độ. Vì thế Trung Cộng thương-lượng với chính quyền Bangdalesh để lập căn cứ hải quân tại đây... Như vậy trong vùng Đông Nam Á, và Nam Á, Trung Cộng đã thiết lập một hệ thống nối liền các căn cứ quân sự trên đất liền và biển.
- Ở Đông Bắc Á, Trung Cộng dùng Bắc Hàn, tên đàn em để quấy rối. Ai cũng rõ nếu không có bàn tay Trung Cộng, chế độ Cộng sản khát máu Bắc Hàn đã sụp đổ từ lâu, chứ đâu có thể lâu-lâu lại mang vũ khí nguyên tử ra hù doạ thế-giới. . . .
Tham-vọng ngông cuồng của Bắc Kinh đã quá rõ ràng. Các nước tiểu nhược trên thế giới đừng vì quyền lợi của phe nhóm hay quốc gia mình mà hà-hơi cho Bắc Kinh để họ có dư thêm tiền bạc phá hoại thế giới. Bài học lịch sử về Hitler còn đó. Vì nhát sợ, vì cầu an, vì lợi lộc cho quốc gia mình, cho phe nhóm mình mà Tây phương và Liên Sô mới đầu đã làm ngơ, giúp cho Hitler đủ phương tiện xâm chiếm lân bang rồi khi đủ mạnh, Hitler quay sang đánh Tây phương và Liên Sô, gây ra thế chiến II làm chết hơn 60 triệu người.”
Về Việt Nam, chúng ta biết rằng con số người Trung quốc hiện đang sinh sống tại Việt Nam không ít và họ chiếm ưu thế trong lãnh vực kinh tế. Nay cho phép người Trung quốc vào Việt Nam không cần chiếu khán nhập cảnh sẽ tạo cơ hội cho một số trong đám họ ở lại, dù bất hợp pháp, điều ấy gây muôn vàn khó khăn cho đồng bào ta trong lãnh vực kinh tế. Đó là chưa kể đến vấn đề an ninh, chính trị.”
Ngày nay, ai cũng thấy rõ giới lãnh-đạo cộng sản Hànội thực-tế đã trở thành “bù nhìn” (tân thái thú), đồng thời cũng là công-cụ bành-trướng một cách không tiếng súng của bá quyền Bắc Kinh.
Đạo quân thứ 5 của Trung Cộng ở Việt Nam đã luôn luôn túc-trực dưới dạng “du khách” không chiếu khán, cộng với các gian thương Hoa Kiều trước ở điạ phương, Trung Cộng có thể coi đây là một công-cụ của họ. Đạo quân này có khả-năng xâm chiến khi cần thiết.
Hơn 60 năm qua, Trung cộng đã gài mạng lưới tình báo, gián-điệp suốt mặt từ thượng tầng cơ-sở đến hạ tầngä điạ phương. Điều hiển-nhiên mà ai cũng thấy rõ các thương gia người Tàu (phe Bắc Kinh) giántiếp điều-hành hệ-thống kinh-tế Việt ngày nay.
Bọn cầm quyền “bù nhìn” Hànội nhất-nhất vâng lệnh quan thày Bắc Kinh.
Tinh thần “dựa dẫm” (tay sai) của bộ chính-trị Cộng sản Việt Nam đã được chính bọn tay sai xácđịnh trong nghị quyết ngày 20-5-1988: “Thay vì dựa hẳn vào một vài nước như trước đây ta đã làm, nay cần phải đa dạng hóa và đa phương hóa quan-hệ quốc tế.”
Sau khi Liên Xô sụp đổ, tiến trình bình thường hóa Việt - Trung đã khiến Việt Nam đi giật lùi cả ngàn năm. Cộng Sản Việt đã làm sống lại chính sách “thần phục” và triều cống từng được áp-dụng từ 968 đến cuối đời Tự Đức.
Hình thức “thần phục” hay “cúi lạy” được thể hiện qua vụ hai vị đại tướng Võ Nguyên Giáp và Lê Đức Anh trong hội nghị thượng đỉnh (1991) lưỡng đảng và nhà nước Trung Cộng với Việt Nam!
* Về chính trị, đảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ rõ tính cách “Phi Dân Tộc” và “Phi Dân Bản” !
Điển hình, theo điều 4 của Hiến Pháp ngày 15-4-1992 của Việt Nam Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lương lãnh đạo nhà nước và xã hội.” Do đó, ta thấy các nghị quyết của bộ chính trị và ban bí thư, các chỉ thị của các cấp ủy đảng chi-phối hệ-thống văn bản pháp luật bao gồm hiến pháp. Thật là “phi dân tộc” và “phi dân bản”.
Xưa nay, thành-lập một tổ-chức hay đảng phái là để phục-vụ cho đất nước và dân tộc, ngược lại, đảng Cộng Sản lại bắt dân, bắt nước tuân phục chúng!
Đảng lãnh-đạo toàn-diện. Đảng nắm trong tay cả ba quyền hành-pháp, lập-pháp và tư-pháp. Đảng nắm chính quyền bằng cách nắm guồng máy nhà nước (cơ quan hành-pháp). Quốc-hội dưới sự lãnh đạo của đảng.
Trong bài thuyết-trình trước Hội-Thảo Chínhtrị tại Washington, D.C. vào ngày 23 & 24 tháng 4, 1996, luật-sư Trần-Thanh-Hiệp đã nêu lên tính cách “độc-tài toàn trị” của đảng Cộng-sản: “Từ-ngữ “toàn trị” ít người dùng vì dư-luận thường đồng-hóa độc-tài với toàn trị.
“ Giáo-sư xã-hội học người Pháp rất nổi tiếng, Raymond Aron đã đưa ra năm đặc-tính để định-nghĩa hiện-tượng “toàn trị”. Ta có thể tóm-lược như sau: Thứ nhất, độc quyền của một chính đảng trong sinh-hoạt chính-trị. Thứ hai, một ý-hệ cũng có tính-chất độc quyền. Thứ ba, độc quyền của đảng này về bạo-lực và các phương-tiện thuyết-phục con người. Thứ tư, sự phụ-thuộc của mọi hoạt-động kinh-tế, nghề-nghiệp vào ý-hệ cũng như vào chính-sách, đường lối của đảng ấy. Thứ năm, sự khủng-bố con người bằng ý-hệ và công-an cùng mật-vụ.
“ Đảng cộng-sản Việt-Nam có đủ năm đặctính này và như vậy đảng này là đảng “toàn trị”.
Toàn trị khác độc-tài ở chỗ không những nó muốn chiếm-đoạt quyền-lực chính-trị mà nó còn muốn thống-trị con người về cả tình-thần lẫn thể-xác. Vì vậy, nó không ngần-ngại can-thiệp vào tất-cả mọi mặt của đời sống. Giữa phần đầu thế-kỷ này, người ta đã có dịp biết đến hai loại “toàn trị” đó là toàn trị phát-xít và toàn trị quốc xã. Tới phần sau thế-kỷ, người ta còn biết thêm một loại toàn trị mới ghêgớm hơn, đó là cộng-sản. Điều đáng kinh sợ nơi toàn trị là ý-đồ của nó nhằm cùm-xích con người vào ýhệ nó áp đặt để tạo ra những “con người mới” (thếhệ Hồ Chí-Minh). Nhưng bởi lẽ thế-giới của những con người đó không là thực-tại xã-hội trước mắt cho nên toàn trị ép buộc con người sống trong một xã-hội “siêu thực”, lấy “siêu thực” làm thực. Chế-độ “toàn trị’ đã khinh-miệt nhân quyền, coi rẻ phẩmgiá sinh mạng con người hiện đang sống bằng xương bằng thịt để chỉ nhìn-nhận mẫu người mộng-ảo chếtạo trong một tương-lai ngày càng xa vời.
“ Khỏi cần nhắc lại thêm rằng toàn bộ cộngsản ở Đông Âu và Liên Sô đã xụp đổ bởi không thể áp-đặt vô-hạn-định cái thế-giới “siêu thực” Mác Lênin. Cộng-sản ViệtNam vẫn còn theo đuổi ý-đồ áp đặt “siêu thực” nên vẫn còn nói “đi lên chủ-nghĩa xãhội là con đường tất yếu của nước ta”, vẫn còn bắt mọi người phải tôn-sùng chủ-nghĩa Mác Lênin, phụ đính tư-tưởng Hồ Chí-Minh. Nhưng tiếc rằng, chẳng ai biết cái “chủ-nghĩa xã-hội” mà các tên lãnh-đạo cộng-sản đang nhắm đi tới, đích-thực nó ra sao và đi tới đâu ? ”
Dưới chế độ Cộng Hòa Xã Hội chủ nghĩa Việt Nam cộng thêm những mưu-toan xâm-lược dưới nhiều hình thức của Trung quốc không những đã gây nên “Quốc gia nạn” đồng thời sinh ra “Dân tộc nạn”.
Dân tộc nạn là sự rạn nứt lâu dần đi đến tan rã khối tập thể nhân dân và nhất là sự xâm-nhập những nét văn hóa ngoại lai và sự phá bỏ văn hóa dân tộc trong một tinh thần lợi danh vọng ngoại.
Nếu quốc gia nạn được kịp thời giải quyết thì những nứt rạn dân tộc được hàn gắn lại, Trường hợp trái lại, quốc gia nạn càng kéo dài, hoặc bị giải-quyết một cách lường gạt thì chẳng những quốc gia nạn vẫn còn mà nứt rạn dân tộc càng sâu rộng, trầm-trọng thêm!
Dân tộc là một dòng sống kết tập từ nhiều nguồn hay từ một nguồn chính yếu. Dân tộc có một đời sống tập thể riêng, một cộng đồng có nếp sống văn hóa đặc thù, và một lịch sử chuyển biến thịnh suy. Dân tộc lâm nguy khi tinh thần tập thể tức ý chí sống còn, tiến hóa chung bị rã-rời, tinh thần bảo toàn nếp sống văn hóa bị suy yếu, và tinh thần tự hãnh ở nếp sống đặc-thù không còn. Nếu tình trạng này đi đến kết thúc tức là dòng sống dân tộc tịch diệt, mặc dầu về mặt sinh lý tuy vẫn còn những con người mang huyết chủng của dòng sống cũ đang sinh hoạt trên lãnh thổ hay tại một nơi nào khác nhưng chỉ là những xác cũ hồn mới!
Những sinh hoạt không hồn nếu có chỉ là những váng bọt vật-vờ trên dòng nước chảy, trước sau những huyết chủng này cũng tan hòa, biến mất trong dòng mà chúng bị cuốn theo. Đó là tình trạng những dân tộc bị tịch diệt.
Dân tộc Việt đang trên bờ vực thẳm qua hai mặt “quốc gia nạn” và “dân tộc nạn” do bọn cầm quyền Cộng Sản Việt.
Bản chất biến cố lịch sử mà dân tộc Việt bị mắc vào trong thời gian cận-thị của triều đình Nguyễn (Nguyễn Gia Long), tiếp là thời kỳ Pháp đô hộ, chuyển sang thời gian đụng độ giữa hai siêu cường Nga-Mỹ lấy đất Việt làm trận tuyến, tệ hại hơn ngày nay trên danh nghĩa độc lập và thống nhất, nhưng thực tế yếu hèn, lệ thuộc, van xin, cầu cạnh, băng hoại, bất lực.
Tinh thần tập thể sinh tồn tức là lòng yêu nước và tình tự dân tộc đã kiệt quệ! Kiệt quệ vì một mặt nhân dân thấy mình bị lường gạt một cách quá sức tưởng tượng, một mặt chính những tình cảm ấy tuy không chính thức bị cấm đoán nhưng lại bị hướng đi một cách đến thành vô nghĩa với những dẫn giải “yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa”!
Lòng nghĩa khí đã chết hẳn, và chỉ còn lợi danh, đê tiện, giảo quyệt. Càng trẻ càng điêu ngoa, trâng tráo. Tập đoàn cộng sản đã đào tạo cho lớp trẻ thay vì nuôi dưỡng “nghĩa khí, hào hiệp” thì lý tưởng khao khát của thanh niên thời đại là làm sao được tuyển vào hàng ngũ tổ chức gọi bằng danh từ “đảng”, và khi được tuyển vào đảng chỉ biết bảo vệ quyền lợi đảng trên hết dù đi ngược lại quyền lợi dân tộc và đất nước! Tinh thần dân tộc đã hoàn toàn bị phá hoại.
Những ngôn ngữ, những việc làm liên quan đến văn hóa, lịch sử dân tộc chỉ là những công tác hóa trang, tuyên truyền!
Tất cả những nét văn hóa truyền lại từ ngàn xưa tại nông thôn như tổ chức thôn ấp, đình miếu, tộc đường,... thậm chí đến cả gò đống, cây đa, con ngòi cùng với danh hiệu, tất cả đều đã bị triệt phá, thay hình đổi dạng, khiến một người đi xa lâu ngày trở về không khác nào đến xứ lạ, và tất nhiên những thế-hệ trẻ lớn lên là lớn lên trong một khung cảnh hoàn-toàn không còn liên-quan đến quá khứ!
Những cứ điểm văn hóa dân tộc đã đương đầu với cả ngàn năm đồng hóa thời Bắc thuộc và hóa giải cả 8, 9 trăm năm cái học-thuật mị ngoại của thời vua chúa và cũng đã chối bỏ được văn hóa lai-căng, bồi bếp thời Pháp thuộc - Những cứ điểm làng mạc quê mùa ấy đã bị tập đoàn cộng sản triệt hạ! Trọng tội này, tập đoàn cộng sản Hồ Chí Minh phải chịu hình phạt nào cho đúng tội đồ của chúng đối với lịch sử dân tộc Việt?
Những nguy kịch này không riêng ở trong nước, mà còn ở thành phần dân tộc nơi hải ngoại. Chỉ trong vòng ít năm tới đây, số người Việt ở hải ngoại còn nói được tiếng Việt trong giao tế hàng ngày với nhau liệu còn được bao nhiêu? Số người còn có những kiến thức về lịch sử, và thưởng-thức được những tinh-tế trong văn chương Việt lại càng thưa-thớt hơn nhiều! Những khối người nhỏ-nhoi trôi giạt khắp nơi trên thế-giới khác nào những tảng băng trôi giạt tới các biển nắng ấm đang tan rất mau những bản chất của dòng sống dân tộc Việt!
Quả là một tình trạng bi đát cho MẹViệt Nam!!!
1- Hoài Nguyên & Dinh Khang Hoạt, “Vấn Đề Văn Hóa Việt”, xb. năm 1994.
1
“Sống tủi làm chi đứng chật trời
Sống nhìn thế-giới hổ chăng ai?
Sống làm nô-lệ cho người khiến
Sống chịu ngu si để chúng cười
Sống tưởng công danh không tưởng nước
Sống lo phú quí chẳng lo đời
DKH
---------------------------------------------------------------------------
- ConDuongCachMangViet1.pdf
- Trung Cộng có thể tiến đánh Việt Nam từ bên sau dãy núi Trường Sơn
- 6/9/2008, Lễ Công Bố Bạch Thư Trường Sa & Hoàng Sa
- Nguy Cơ Từ Phương Bắc
- audio: 2002: Phản ứng của người Việt trong và ngoài nước sau khi biết sự việc bị ém nhẹm từ 1999-2000
- 14 Tháng 9 Năm 1958 - Ngày Đảng CSVN Ký Công Hàm Bán Nước
- Tài Liệu Tình Báo Về CSVN Bán Nước Cho Trung Cộng 1999-2000
- Tài liệu về Hoàng Trường Sa
- 2008: Gs Nguyễn Văn Canh nói về Bạch Thư về Hoàng Sa và Trường Sa
- 2008: Phỏng vấn: Những suy tư của cựu sĩ quan Trần Anh Kim (Thái Bình) về sự hèn yếu của đảng & nhà nước CSVN về vụ Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa & Trường Sa
---------------------------------------------------------------------
- Sách : Tàu xâm lăng hán hóa VN !!
- audio 20080907: NVQG: câu chuyện thời sự : TC sắp đánh VN !!!?
- 10/9/08: csvn xử kín anh Điếu Cày, biến 1 người yêu nước thành "tội phạm"
- audio Phỏng vấn cựu trung tá cs Trần Anh Kim về Hoang sa...
- Audio: HCM & csvn đã dâng HS TS, Ải Nam Quan, Thác bản giốc cho TC: pv nhà văn Hà Phương - Hải Phòng
- Cựu chiến binh cs Kêu gọi nhà cầm quyền CSVN hủy bỏ công hàm 14/09/1958
- Quốc Nội Kêu Gọi Biểu Tình Chống Trung Quốc Ngày 14/9
- Bài giảng CN 23 năm A 2008, Lm. Lê Quang Uy, DCCT CN 7.9.2008
- Ủy Ban Công Bố Bạch Thư Về Chủ Quyền Hoàng Sa & Tr...
- Le cong bo bach thu Hoang sa Truong sa
- 14 Tháng 9 Năm 1958 - Ngày Đảng CSVN Ký Công Hàm Bán Nước
- 4 tội phản quốc của csvn !!
- Trung quốc và phản quốc !!
- Nguy cơ từ bắc phương !!
- Thủ phạm cắt đất dâng biển cho Tầu Cộng 14/9/1958
- Công hàm 1958: lời bàn : sai lầm và tội ác
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment