Friday, June 13, 2008

Chính sách đất đai thời cs : ăn cướp, xô đẩy người dân trốn chạy thiên đàng xhcn

Thái độ Chú Sáu, Mười Cúc về hai văn bản này?

Quyết định
của Hội đồng Chính phủ số 100/CP ngày 12 tháng 4 năm 1977 ban hành chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp tư nhân ở các tỉnh phía Nam


Hội đồng Chính phủ

Tiếp theo bản Tuyên bố của Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về chính sách đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam hiện nay;
Để đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư nhân ở các tỉnh phía Nam;
Theo đề nghị của các ông Bộ trưởng Bộ Nội thương, Trưởng Ban Cải tạo công thương nghiệp tư doanh Trung ương trong phiên họp Hội đồng Chính phủ ngày 25 tháng 2 năm 1997,
Quyết định:

Điều 1.- Nay ban hành kèm theo quyết định này bản chính sách về cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp tư nhân ở các tỉnh phía Nam.

Điều 2.- Các ông Bộ trưởng Bộ Nội thương, Trưởng Ban Cải tạo công thương nghiệp tư doanh Trung ương, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ở phía Nam chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.

Chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp tư nhân ở các tỉnh phía Nam
(Ban hành theo Quyết định của Hội đồng Chính phủ số 100/CP ngày 12 tháng 4 năm 1977)

I. Mục đích, yêu cầu.

Việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp tư nhân ở các tỉnh phía Nam phải đạt được mục đích, yêu cầu sau đây:

- Trên cơ sở xây dựng và phát triển thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng và Chính phủ, thực hiện xoá bỏ thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, xây dựng thị trường xã hội chủ nghĩa thống nhất, trong đó thương nghiệp quốc doanh giữ vai trò chủ đạo.
- Thương nghiệp quốc doanh phải hoàn toàn nắm vững khâu bán buôn (bán sỉ) và phần lớn khâu bán lẻ, trước hết nhằm vào những mặt hàng thuộc nhu cầu thiết yếu đối với sản xuất, đời sống và xuất khẩu; trên cơ sở đó mà không ngừng mở rộng giao lưu hàng hoá có tổ chức, bảo đảm cho sản xuất không ngừng phát triển, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân.
- Thông qua việc cải tạo thương nghiệp tư bản tư doanh, cải tạo tiểu thương và tổ chức mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa mà thúc đẩy quá trình phân bổ lại lao động, xã hội, giảm bớt số người buôn bán hiện nay quá đông; xoá bỏ nạn đầu cơ, buôn bán trái phép; tích cực chuyển tư sản thương nghiệp và phần lớn tiểu thương sang sản xuất.
- Giáo dục, phát động quần chúng, thực hiện quyền làm chủ tập thể của công nhân và lao động, xây dựng chỗ dựa vững chắc để tiến hành cải tạo, quy hoạch và sắp xếp lại mạng lưới thương nghiệp xã hội được hợp lý hơn, sử dụng những cơ sở, phương tiện kinh doanh của thương nghiệp tư nhân vào mục đích lưu thông phân phối hàng hoá có kế hoạch và tổ chức phục vụ tốt hơn cho sản xuất và đời sống của nhân dân.

II. Hình thức cải tạo, những chính sách và những biện pháp thực hiện

1. Hình thức cải tạo:
- Chuyển tư sản thương nghiệp và những người buôn bán nhỏ sang sản xuất là biện pháp chủ yếu để cải tạo thương nghiệp tư nhân.
- Đối với thương nghiệp tư bản tư doanh, nói chung, Nhà nước không đặt vấn đề công tư hợp doanh. Song, cá biệt có những hộ có phương tiện kinh doanh tốt mà từ trước đến nay vẫn ủng hộ cách mạng và chấp hành nghiêm chỉnh các chính sách của Nhà nước thì có thể tiến hành công tư hợp doanh theo hình thức định lãi, nhằm tận dụng các cơ sở vật chất, kỹ thuật, và khả năng nghiệp vụ, quản lý của họ.
- Có thể lựa chọn để sử dụng một số nhà Tư sản thương nghiệp làm đại lý bán lẻ hàng hoá cho Thương nghiệp quốc doanh, nhưng phải có biện pháp kiểm soát và quản lý chặt chẽ.
- Đối với một số người buôn bán nhỏ còn được tạm thời tiếp tục kinh doanh, thì tổ chức họ lại thành những hình thức thích hợp như Tổ thương nghiệp, Tổ mua bán hàng... để thông qua đó mà tiến hành việc giáo dục và quản lý họ.

2. Chính sách cụ thể:

-Đối với các cơ sở kinh doanh thương nghiệp của Mỹ nguỵ, của tư sản mại bản, của tư sản có tội đã bỏ trốn ra nước ngoài, của bọn nguỵ quân, nguỵ quyền có nhiều tội ác, của tư sản gian thương lớn, thì tịch thu và tổ chức thành quốc đoanh.
- Đối với các cơ sở kinh doanh thương nghiệp vắng chủ, mà không có người thừa kế hợp pháp, hoặc người đang quản lý không có đủ giấy uỷ quyền hợp pháp, thì Nhà nước trực tiếp quản lý, sau này khi người chủ về, Nhà nước sẽ tuỳ từng trường hợp cụ thể mà giải quyết theo chính sách chung.
- Đối với một số người muốn xin hiến tài sản cho Nhà nước, sẽ xét và chấp nhận cho hiến theo đúng tinh thần quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 434/TTg ngày 30 tháng 10 năm 1976.
- Có thể trưng thu hoặc trưng mua những cơ sở và phương tiện kinh doanh còn tốt của tư sản thương nghiệp. Số tiền trưng mua sẽ được Nhà nước chuyển qua Ngân hàng Nhà nước và trả dần trong một số năm, tuỳ theo nhu cầu hợp lý về vốn để sản xuất và sinh hoạt của từng hộ tư sản.
Thương nghiệp quốc doanh có thể lựa chọn để sử dụng một số nhà tư sản có kỹ thuật và nghiệp vụ quản lý kinh doanh, trước đây quan hệ tốt với cách mạng và hiện nay có thái độ tuân thủ và chấp hành các chính sách, luật pháp của Nhà nước.
- Đối với các công nhân, người bán hàng đang làm thuê cho các nhà tư sản thương nghiệp, Nhà nước sẽ tuyển dụng vào làm trong mạng lưới thương nghiệp quốc doanh.
3. Mấy biện pháp chủ yếu để bảo đảm làm tốt cải tạo thương nghiệp tư nhân đi đôi với phát triển nhanh chóng lực lượng thương nghiệp xã hội chủ nghĩa và thương nghiệp hợp tác xã:

a. Kiên quyết tập trung các nguồn hàng chủ yếu trong tay Nhà nước.
- Đối với các loại hàng nông sản, thuỷ sản, hải sản và thực phẩm, ngoài những mặt hàng đã có quy định thuộc diện Nhà nước thống nhất quản lý như lương thực, muối...., Nhà nước cần thống nhất thu mua ở những vùng sản xuất tập trung một số mặt hàng quan trọng như: cá, thịt lợn, trâu bò; rau và trái cây đặc sản để xuất khẩu; lạc, đậu các loại; hạt tiêu; dừa; mía cây; và đường mật; thuốc lá; chè; cà phê; bông; đay; gai; cói (lác), tơ tằm v.v... ở những vùng này, không cho thương nhân hoạt động, tranh mua với Nhà nước.
Các cơ quan thương nghiệp và vật tư phải phối hợp vận dụng đồng bộ các biện pháp: giúp đỡ sản xuất, giáo dục chính trị, định giá mua hợp lý, thực hiện hợp đồng hai chiều, quản lý thị trường...., để bảo đảm tập trung nguồn hàng vào trong tay Nhà nước. Các nông trường quốc doanh phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ giao nộp sản phẩm cho Nhà nước.
- Đối với các loại hàng công nghiệp, thủ công nghiệp, các xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh phải thực hiện chế độ giao nộp, tức là bán toàn bộ sản phẩm cho thương nghiệp Nhà nước. Đối với các xí nghiệp tư nhân, bao gồm cả tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp quốc doanh ký hợp đồng đặt mua sản phẩm, hoặc dùng chính sách gia công, hay bán nguyên liệu mua thành phẩm, để nắm nguồn hàng, trước hết nhằm vào những sản phẩm dùng nguyên liệu vật tư chủ yếu do Nhà nước thống nhất quản lý phân phối.

b. Tổ chức tốt mạng lưới phân phối hàng hoá đến tay người tiêu thụ theo một chính sách tiêu dùng hợp lý; tăng cường quản lý thị trường, chống đầu cơ tích trữ và buôn lậu: Tuyên truyền giáo dục cho cán bộ, quân đội và nhân dân thấy rõ khó khăn thiếu thốn chung trong bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội và sau một cuộc chiến tranh lâu dài tàn phá đất nước ta, động viên mọi người vừa ra sức góp phần khôi phục và phát triển sản xuất, vừa có ý thức tiết kiệm tiêu dùng phù hợp với khả năng kinh tế của nước ta hiện nay.

Mặt khác, các Uỷ ban nhân dân các cấp, các ngành sản xuất và lưu thông từ Trung ương đến địa phương phải đề cao trách nhiệm của mình, làm thật tốt việc sản xuất, thu mua và phân phối, tăng cường quản lý thị trường, đấu tranh bình ổn vật giá, để không ngừng giảm bớt khó khăn trong đời sống của nhân dân.
Trong điều kiện khả năng hàng hoá của ta có hạn, thị trường tự do còn tác động trong cuộc sồng hàng ngày, phải tiến hành phân phối hàng hoá một cách có kế hoạch và có tổ chức cho các nhu cầu, để bảo đảm việc phân phối được công bằng, hợp lý, đúng đối tượng, chống đầu cơ, lợi dụng.

Đi đôi với việc tổ chức phân phối hàng hoá tới tay người tiêu thụ theo giá chỉ đạo của Nhà nước, phải tổ chức và quản lý các nghề kinh doanh ăn uống và phục vụ trên thị trường, từ đó mà góp phần tổ chức cuộc sống cho nhân dân lao động được tốt hơn. Trong năm 1977, ngành thương nghiệp phải cùng các tổ chức Công đoàn các cơ quan, xí nghiệp, trường học... chấn chỉnh tổ chức và quản lý các nhà ăn tập thể, tổ chức việc ăn và nghỉ cho cán bộ, công nhân, viên chức đi công tác dọc các tuyến đường chính, quản lý gia công may quần áo và sửa chữa xe đạp, xe máy ở các thành phố, thị xã...
Để thực hiện được những mục tiêu nói trên, phải mở rộng hơn nữa mạng lưới phân phối hàng hoá về tới quận, huyện, xã, phường; lấy thị xã, phường làm đơn vị phân phối; phát triển và củng cố các hợp tác xã tiêu thụ ở thành thị và hợp tác xã mua, bán ở nông thôn, các căng tin trong cơ quan, xí nghiệp, trường học, bệnh viện, cơ quan và đơn vị lực lượng vũ trang v.v...

c. Phải làm tốt việc giáo dục nhân viên thương nghiệp, làm cho mọi người có trách nhiệm đầy đủ, tinh thần và thái độ phục vụ nhân dân đúng đắn, chống tệ cửa quyền, hách dịch, móc ngoặc, cảm tình nể nang, đề phòng sự thoái hoá về phẩm chất, đạo đức.

d. Về tổ chức thực hiện, cần tăng cường giáo dục bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thương nghiệp về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ quản lý và kinh doanh; kiện toàn tổ chức ngành nội thương đủ sức làm tốt cả hai chức năng: quản lý hành chính thương nghiệp, chỉ đạo và tổ chức kinh doanh, bảo đảm cho việc vận động hàng hoá được hợp lý, phù hợp với yêu cầu tổ chức lại nền kinh tế cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, cần đào tạo gấp và bố trí đủ số cán bộ cần thiết để làm công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp tư nhân theo từng ngành hàng, gắn liền việc cải tạo với việc xây dựng thương nghiệp xã hội chủ nghĩa để thay thế kịp thời thương nghiệp tư bản chủ nghĩa và buôn bán nhỏ được cải tạo theo hướng chuyển sang sản xuất là chủ yếu...
Trong hai năm 1977 và 1978, phải hoàn thành về cơ bản việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, và chuyển một phần lớn tiểu thương sang sản xuất, đi đôi với phát triển nhanh chóng lực lượng thương nghiệp xã hội chủ nghĩa.
Bộ Nội thương chịu trách nhiệm phối hợp với Ban Cải tạo công thương nghiệp tư doanh Trung ương có kế hoạch phổ biến hướng dẫn và tổ chức thực hiện quyết định này đồng thời đôn đốc và kiểm tra các ngành có liên quan và các địa phương cùng thực hiện đạt kết quả tốt./.

---------------------------------------------------------------------
Quyết định
của Hội đồng Chính phủ số 111/CP ngày 14 tháng 4 năm 1977
về việc ban hành chính sách quản lý và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nhà, đất cho thuê ở các đô thị của các tỉnh phía Nam


Hội đồng Chính phủ

Tiếp theo bản tuyên bố của Chính phủ về chính sách đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam hiện nay;
Để tăng cường quản lý nhà đất và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư nhân ở các tỉnh phía Nam;
Theo đề nghị của đồng chí Bộ trưởng Bộ Xây dựng và của đồng chí Trưởng Ban Cải tạo Công thương nghiệp tư doanh Trung ương trong phiên họp Hội đồng Chính phủ ngày 25/2/1977;

Quyết định

Điều 1.- Nay ban hành kèm theo quyết định này bản chính sách quản lý và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nhà đất cho thuê ở các đô thị các tỉnh phía Nam.

Điều 2.- Các đồng chí Thủ trưởng các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ và các đồng chí chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ở phía Nam có trách nhiệm thi hành quyết định này, các đồng chí Bộ trưởng các Bộ Xây dựng, Nội vụ, Ngoại giao và các đồng chí Trưởng ban Cải tạo Công thương nghiệp tư doanh Trung ương có trách nhiệm hướng dẫn các ngành, các cấp thi hành quyết định này, tuỳ theo chức năng quản lý và những vấn đề có liên quan đến ngành mình.

Chính sách
quản lý và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nhà, đất cho thuê ở các đô thị các tỉnh phía Nam
(Ban hành theo Quyết định của Hội đồng Chính phủ số 111/CP ngày 14/4/1977)

Mục đích yêu cầu

Việc quản lý và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nhà, đất cho thuê ở các đô thị, các tỉnh phía Nam cần đạt được mục đích, yêu cầu sau đây:
- Xoá bỏ kinh doanh bóc lột về nhà đất; thực hiện thống nhất quản lý của Nhà nước về nhà đất ở đô thị.
- Cải tạo đến đâu, quản lý tốt đến đó, đồng thời tiến hành quy hoạch, bố trí, sắp xếp điều chỉnh lại những khu vực sản xuất, khu vực hành chính, sự nghiệp, khu vực ở và các cơ sở phúc lợi công cộng... sao cho công bằng; hợp lý và có lợi nhất, trên tinh thần tận dụng cơ sở sẵn có, kết hợp với xây dựng mới; từng bước giải quyết chỗ làm việc cho cơ quan Nhà nước và chỗ ở cho công nhân, nhân viên và nhân dân lao động chưa có chỗ ở hoặc ở quá chật, cải thiện từng bước điều kiện nhà ở của nhân dân góp phần ổn định và phát triển sản xuất.
- Tăng cường việc bảo quản, sửa chữa nhà cửa và từng bước cải tạo và xây dựng thành thị theo hướng xã hội chủ nghĩa.

I. Chính sách đối với nhà đất, cho thuê:

1. Nhà nước quốc hữu hoá toàn bộ nhà cho thuê, không kể diện tích cho thuê nhiều hay ít của tư sản mại bản, của địa chủ, của tư sản gian thương lớn, của những người phạm tội nặng về chính trị và kinh tế của các tổ chức phản động.
2. Nhà nước trực tiếp quản lý toàn bộ nhà cho thuê của các chủ là cá nhân, công ty, đoàn hội, tôn giáo v.v... trừ trường hợp nhân dân lao động có ít diện tích cho nhau thuê để ở hoặc cho ở nhờ.
Tuỳ theo chất lượng, công dụng của từng ngôi nhà, tuỳ theo diện tích cho thuê nhiều hay ít, tuỳ theo thu nhập của chủ nhà cao hay thấp, Nhà nước để cho những chủ nhà là cá nhân được hưởng một phần tiền thuê nhà. Phần chủ nhà được hưởng sẽ do Bộ Xây dựng quy định cụ thể, nhiều nhất không quá 25% tiền thuê nhà.
Riêng đối với những chủ nhà là cá nhân có ít nhà cho thuê để ở, diện tích cho thuê dưới 150 m2 ở các tỉnh, dưới 200 m2 ở thành phố Hồ Chí Minh, hoặc thu tiền cho thuê nhà (không kể tiền đặt cọc) hàng năm dưới 600 đồng ở các tỉnh và 800 đồng ở thành phố Hồ Chí Minh thì trước mắt chủ nhà vẫn được tạm thời cho thuê nhưng phải chấp hành đầy đủ những quy định thống nhất về đăng ký, hợp đồng giá cho thuê, điều lệ bảo quản sửa chữa, quyền lưu trú của người thuê.

3. Nhà nước trực tiếp quản lý tất cả các biệt thự cho thuê (không kể diện tích nhiều hay ít) và toàn bộ diện tích nhà cho thuê không phải để ở mà để làm cửa hàng, bệnh viện, trường học (không kể diện tích cho thuê nhiều hay ít). Nhà nước trực tiếp quản lý tất cả các cư xá công và tư, không kể là cư xá cho thuê hay ở không mất tiền. Đối với những căn hộ mà người ở đã mua đứt và có giấy tờ hợp lệ thì coi như của riêng, nếu không phải là đối tượng bị tịch thu trưng thu thì người đã mua nhà được Nhà nước thừa nhận quyền sở hữu.

4. Đối với thần sĩ trí thức, gia đình có công với cách mạng có nhà cho thuê thì vận động họ hiến. Công nhân, viên chức Nhà nước và Đảng viên có nhà cho thuê hoặc đang quản lý nhà cho thuê thì giao những nhà đó cho Nhà nước quản lý.

5. Những chủ có nhà cho thuê mà không có chỗ ở được giữ lại một diện tích để ở tương đương với bình quân diện tích chung ngoài xã hội hoặc có thể rộng hơn một ít tuỳ theo cấu trúc của ngôi nhà.

6. Nhà nước trực tiếp quản lý toàn bộ đất cho thuê không phân biệt diện tích nhiều hay ít và nói chung không bồi hoàn, trừ trường hợp đặc biệt.

7. Người đang thuê đất được phép sử dụng mà không được mua bán, chuyển dịch và phải tuân theo những quy định về quản lý nhà đất ở đô thị.

II. Đối với nhà, đất vắng chủ

1. Tất cả những nhà, đất và tài sản vắng chủ của người Việt nam và ngoại kiều đều do Nhà nước trực tiếp quản lý. Khi người chủ về, Nhà nước sẽ giải quyết với họ. Không ai được chiếm dụng, tự ý chuyển nhượng, mua bán nhà cửa, tài sản vắng chủ khi không được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
2. Nhà nước quản lý sử dụng những nhà, đất và tài sản vắng chủ cho thuê theo chính sách cải tạo nhà cho thuê.
3. Nhà nước quản lý sử dụng những nhà, đất và tài sản vắng chủ của những người đã ra nước ngoài làm ăn buôn bán, hành nghề từ trước ngày giải phóng, khi họ trở về sẽ tuỳ từng trường hợp mà nghiên cứu giải quyết sau.
Riêng đối với những người sau đây, khi họ trở về, Nhà nước sẽ xét từng trường hợp cụ thể mà trả lại nhà cửa, tài sản cho họ:
a. Những người làm ăn lương thiện đi chữa bệnh, đi thăm viếng bà con, đi học ở nước ngoài.
b. Những người đi tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến.
c. Những người là nhân dân lao động vì hoang mang sợ hãi bỏ chạy đi các nơi trước và trong những ngày giải phóng.
4. Những nhà, đất và tài sản mà trước khi vắng, chủ nhà đã uỷ quyền hợp pháp cho những người là con đẻ, vợ hoặc chồng hợp pháp của mình quản lý thì những người ấy được tiếp tục quản lý và phải chấp hành những chính sách quản lý nhà, đất của Nhà nước; trường hợp chưa kịp uỷ quyền hợp pháp thì Nhà nước cho phép những người là cha mẹ, con đẻ, vợ hoặc chồng hợp pháp của họ trước đây đã ở trong những nhà ấy, nay được tiếp tục ở nhưng không được bán, chuyển dịch bất động sản.
Đối với thân nhân không phải là cha mẹ, vợ chống, con của các chủ vắng mặt mà trước đây cùng ở chung với chủ nhà, nếu nay còn ở lại thì sẽ được thu xếp cho ở một chỗ trong nhà hoặc xếp ở nơi khác.
5. Những trường hợp xin thừa kế, xin hiến nhà, đất và tài sản vắng chủ sẽ được nghiên cứu giải quyết từng trường hợp cụ thể theo chính sách.
6. Uỷ ban nhân dân thành phố, tỉnh thống nhất quản lý những nhà đất và tài sản vắng chủ tại địa phương.
Cơ quan quản lý nhà đất và cơ quan tài chính chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng, kiểm kê định giá, xử lý và thanh toán với chủ nhà khi họ trở về theo đúng các chính sách chế độ và thống nhất quản lý nhà đất và tài sản vắng chủ của Nhà nước.

III. Đối với nhà, đất của các đoàn, hội tôn giáo

Để bảo đảm thống nhất quản lý nhà cửa, bảo đảm tôn trọng tự do tín ngưỡng và căn cứ vào các chế độ, chính sách khác của Nhà nước, việc quản lý của các đoàn, hội tôn giáo ở các tỉnh phía Nam được quy định như sau:
1. Nhà nước bảo hộ mọi nhà thờ, chùa chiền, miếu mạc, thánh thất được thực sự và thuần tuý dùng vào việc thờ cúng hành đạo.
2. Nhà nước tịch thu toàn bộ nhà đất của các Đoàn Hội các tổ chức không được Nhà nước thừa nhận và cho phép hoạt động.
3. Nhà, đất của các đoàn, hội, các tổ chức khác và của các tôn giáo hiện đang cho thuê được giải quyết theo chính sách chung về nhà, đất cho thuê. Riêng đối với các nhà tập trung của các tổ chức, các tôn giáo đã cho hội viên, giáo dân của mình nhờ, hoặc ở thuê với giá rất rẻ mà không nằm trong phạm vi nơi thờ cúng, hành đạo thì Nhà nước có thể xét cấp hẳn cho người đang sử dụng.
4. Những nhà cửa đất đai khác còn bỏ trống hoặc dùng vào mục đích không phải thờ cúng, hành đạo, thì Nhà nước vận động thuyết phục giáo dân giao cho Nhà nước dùng vào việc phục vụ lợi ích chung.

IV. Đối với nhà, đất của các tổ chức và cá nhân thuộc bộ máy cai trị của nguỵ quân nguỵ quyền và đảng phái phản động

1. Mọi loại nhà cửa, đất đai trước ngày Giải phóng do chính quyền Mỹ nguỵ quản lý hoặc dành cho những tổ chức hay cá nhân, thuộc nguỵ quân nguỵ quyền và các tổ chức đảng phái phản động sử dụng, nay đều là tài sản công cộng, do Nhà nước trực tiếp quản lý.
2. Nhà cửa, đất đai của những người sau đây đều do Nhà nước trực tiếp quản lý:
- Sĩ quan nguỵ quân cấp từ thiếu tá trở lên.
- Sĩ quan cảnh sát từ cấp trung uý trở lên.
- Cán bộ thuộc bộ máy cai trị của nguỵ quyền đã giữ chức vụ, từ Chủ sự phòng cơ quan Trung ương, Ty phó, Quận phó trở lên.
- Các phần tử ác ôn, mật vụ, tình báo, chiêu hồi cố tình phản cách mạng.
3. Những người có nhà cho thuê và nhà thuộc diện Nhà nước trực tiếp quản lý, tuỳ theo chức vụ cấp bậc, quá trình hoạt động dưới thời Mỹ nguỵ và thái độ chính trị hiện nay của đương sự mà có thể chiếu cố dành cho một diện tích ở thích đáng, nếu chưa có chỗ ở.

V. Đối với nhà đất của ngoại kiều

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không thừa nhận mọi cam kết của chính quyền Mỹ nguỵ với các nước và các tổ chức quốc tế có cơ quan ở miền Nam Việt Nam.
Nhà nước không thừa nhận quyền sở hữu về bất động sản đã có của các nước và của ngoại kiều trên lãnh thổ Việt Nam từ trước ngày Giải phóng. Chính phủ sẽ giải quyết các vấn đề tồn tại về các loại nhà, đất này theo hướng sau đây:
1. Quốc hữu hoá không bồi hoàn toàn bộ đất đai, nhà cho thuê của chính phủ nước ngoài và ngoại kiều. Xét trường hợp cụ thể có hình thức xử lý đích đáng; không bồi hoàn, bồi hoàn tượng trưng, bồi hoàn một phần tuỳ theo quan hệ ngoại giao giữa nước ta với nước hữu quan nếu là nhà thuộc quyền sở hữu của Nhà nước hữu quan, và tuỳ theo tính chất kinh doanh bóc lột của ngoại kiều nếu là nhà thuộc quyền sở hữu của ngoại kiều.

2. Tịch thu toàn bộ tài sản:
a. Của nước trực tiếp tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam.
b. Của ngoại kiều trực tiếp phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
c. Của nước ngoài đã được sử dụng vào mục đích của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
3. Đối với nhà làm việc và nhà ở của các Chính phủ nước ngoài khác và của các tổ chức quốc tế thì giải quyết như sau:
Nếu là nhà mua hoặc tự xây cất hợp pháp, căn cứ vào quy hoạch của đô thị mà có thể cho họ giữ lại một số nhà cần thiết để làm cơ quan lãnh sự hoặc cơ quan nghiệp vụ được Nhà nước ta chấp nhận. Những nhà không dùng vào công việc trên thì phải nhượng lại.
Đối với những nhà không mua hoặc xây cất không hợp pháp thì Nhà nước quản lý không bồi hoàn.

4. Nhà của ngoại kiều:
- Đối với những ngoại kiều được ở lại nước ta làm ăn sinh sống, có nhà tự xây dựng hợp pháp thì được thừa nhận quyền sử dụng để ở.
- Đối với ngoại kiều được phép xuất cảnh:
Nếu là người lao động, thì Nhà nước cho phép bán nhà mà họ đang ở hoặc tự xây cất hợp pháp.
Nếu có cha mẹ, vợ chồng hợp pháp, con đẻ được ở lại và đã cùng ở chung một hộ thì có thể được xét cho nhận uỷ quyền quản lý.
Đối với nhà của ngoại kiều không phải là nhân dân lao động thì trước khi xuất cảnh đều phải giao lại cho Nhà nước quản lý, và tuỳ từng trường hợp, Nhà nước sẽ không bồi hoàn, bồi hoàn tượng trưng, hoặc bồi hoàn một phần.

-----
http://www.x-cafevn.org/forum/showthread.php?p=190442#post190442
-----
Ý kiến:
Tiếm danh, núp bóng nhân dân để đi ăn cướp có giấy tờ (luật rừng), có công cụ đàn áp của chế độ độc tài toàn trị là công an, quân đội, nhưng "phi pháp" theo công lý quốc tế và đạo lý dân tộc, con người đúng nghĩa !
Để thực thi công bằng xã hội và đạo lý dân tộc theo Hiến pháp và chủ trương của đảng và nhà nước cs, hãy ÁP DỤNG chính sách này với tất cả đảng viên cs và gia đình bà con cán bộ. Hãy trao trả quyền làm chủ thực sự đất đai nhà cửa cho nhân dân, cho từng người dân, qua một ủy ban độc lập vởi đảng và NN cs, với 1 thể chế dân chủ tự do, có giám sát quốc tế !!

No comments: