- Chính sách thâm độc của csvn : tiêu diệt tương lai dân tộc VN hòng giữ vững quyền lực đảng
http://group/ctxh_tailieu1/web/Chinhsach_tham_doc_cua_csvn_NTD.pdf
http://www.mediafire.com/?gdqmoawkdmy
- Báo Cáo Mật Của Khrushốp Về Stalin - Đỗ Tịnh - vantuyen.net
http://www.vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=7066
- Tôn giáo và chính trị:
http://group/ctxh_tailieu1/web/NAT_ton_giao_va_chinh_tri_1.pdf
http://www.mediafire.com/?npsmgrrkoil
http://group/ctxh_tailieu1/web/NAT_ton_giao_va_chinh_tri_2.pdf
http://www.mediafire.com/?loqimwzoj6u
http://group/ctxh_tailieu1/web/NAT_ton_giao_va_chinh_tri_3.pdf
http://www.mediafire.com/?kmz6tqw6szy
http://group/ctxh_tailieu1/web/NAT_ton_giao_va_chinh_tri_4.pdf
http://www.mediafire.com/?mv5gdqc30kd
- 10 giáo án về HCM
http://group/ctxh_tailieu1/web/10giao_an_ve_daoduc_hcm.pdf
http://www.mediafire.com/?ugszbqpfaun
- Viết về HCM
http://group/ctxh_tailieu1/web/bbc_hoangtranh_ve_hcm.pdf
http://www.mediafire.com/?dmeiwifhnmx
- Hồ sơ tham nhũng của csvn
http://group/ctxh_tailieu1/web/ho_so_tham_nhung_csvn.pdf
http://www.mediafire.com/?fprrdszczny
- Đcsvn qua những biến động trong phong trào cs quốc tế
http://group/ctxh_tailieu1/web/nmc_dcsvn_qua_nhung_bien_dong_pt_cs_quocte.pdf
http://www.mediafire.com/?xefitq1zgin
- vài mẫu chuyện về HCM
http://group/ctxh_tailieu1/web/nmc_vai_mau_chuyen_ve_hcm.pdf
http://www.mediafire.com/?ubmzgccki2m
- Tâm thư gởi người dân oan VN
http://group/ctxh_tailieu1/web/tamthu_goi_nguoi_dan_oan2008.pdf
http://www.mediafire.com/?qksauzlrsqa
- 10 vấn đề nóng VN, ...
http://group/ctxh_tailieu1/web/vietnamnet_10_vande_nong_2008.pdf
http://www.mediafire.com/?uf8k6vr5nve
- VN sau thang 4 den 1975
http://www.mediafire.com/?yzagakjqhve 1, 75-80
http://www.mediafire.com/?rjecafmj9sq 2
http://www.mediafire.com/?5ucmomkf1a7 3
http://www.mediafire.com/?kezyiitnza3 4
http://www.mediafire.com/?yplewlm9xwe 5
---------------------------------------------------------------------------
- TauXamLangHanHoaVN2.pdf !!!!!
- ConDuongCachMangViet1.pdf
- nvqg1: Tai lieu khac: lich su, chinh trị - pdf
- http://www.mediafire.com/?sharekey=ccd8db9b9d37cc61d2db6fb9a8902bda bd Tai lieu
- http://www.mediafire.com/?sharekey=ccd8db9b9d37cc61ab1eab3e9fa335ca3d2496ee99dd6ffc tqvn Tai lieu : khong anh? chuan bi chien tranh cua TC o day Truong Son, Thien tuong,
---------------------------------------------------------------------------
- http://www.tiengnoigiaodan.net/
-
http://www.onthi.com/download/phan-mem-hay/
Sunday, August 31, 2008
Báo cáo trong cuộc họp mặt kiều vận !!! - Nguyễn Tâm Bảo
Nguyễn Tâm Bảo
" Trí thức" trong đcsvn
Bao_cao_hop_mat_kieu_van.pdf
Lưu trữ theo chế độ tài liệu tuyệt mật.
LTS.- Đây là một tài liệu tối mật vừa được chuyển ra hải ngoại. Những điều viết trong tài liệu này đã được CSVG áp dụng thi hành trong và ngoài nước từ 33 năm nay và tạimiền Băc từ năm 1954. Rất mong các cộng đồng người tỵ nạn khắp nơi tại hải ngoại nghiên cứu để tìm cach bẻ gãy nghị quyết 36 của VGCS. Đặc biệt với người Việt Nam trong nước đang tranh đấu cho dân chủ tự do cho quê hương nên học hỏi thêm để tìm cách tránh né những mưu mô gian xảo của nhóm Việt Gian bán nước này.
--------------------------------------------------------------------------------
Thưa các đồng chí,
Đảng quang vinh của chúng ta muốn tồn tại và phát triển, giữ vai trò là đảng tiên phong và duy nhất lãnh đạo đất nước, thì có mấy mục tiêu quan trọng sau đây phải được quan tâm đúng mức:
1. Phải làm cho dân chúng vừa yêu vừa sợ. Nếu không thể làm cho người dân yêu mến – điều mà tôi e là sự thật cay đắng cần chấp nhận – thì cũng phải tuyệt đối duy trì nỗi sợ hãi để họ không bao giờ có đủ ý chí mà nổi loạn.
2. Phải giữ cho cái gọi là “phong trào dân chủ đối lập” không thể trở thành phong trào đúng nghĩa, không thể bén rễ và lan rộng.
Phải làm sao để nó chỉ là hoạt động manh mún, rời rạc, tự phát của các cá nhân đơn lẻ; làm cho có nhiều “lãnh tụ” mà ít hoặc không có quần chúng; có nhiều “nhân sĩ trí thức” mà ít hoặc không có một tổ chức nào có thực lực; có nhiều những hoạt động lãng mạn hời hợt có tính phô trương – mà người dân có biết đến cũng chỉ mỉm cười ý nhị – chứ ít hoặc không có những hoạt động thiết thực có tầm mức ảnh hưởng sâu rộng đến xã hội; có thật nhiều những hoạt động “chống cộng cực đoan” có tính chất phá hoạt từ bên trong, gây phản cảm đối với người dân lao động, thậm chí làm cho những gia đình cách mạng và đội ngũ cựu chiến binh phẫn nộ…
Tóm lại, phải làm cho người dân nếu không quay lưng thì cũng thờ ơ với cái gọi là “đấu tranh dân chủ”. Cụ thể như thế nào thì tôi đã có dịp trình bày.
3. Phải chủ động trong việc nâng cao dân trí để làm bàn đạp mà phát triển kinh tế, nhưng lại phải lèo lái để “dân trí cao” không đồng nghĩa với “ý thức dân chủ cao”.
Phải làm sao để chất lượng giáo dục bậc đại học được cải thiện nhưng đa số sinh viên phải trở nên thực dụng hơn, có tinh thần “entrepreneurship” – khao khát tiền bạc và công danh, mạo hiểm và sáng tạo trong kinh doanh, cầu tiến trong sự nghiệp riêng, tôn thờ Bill Gates và chủ nghĩa tiêu thụ – nhưng đồng thời cũng tuyệt đối thờ ơ với những lý tưởng và hoài bão cải biến xã hội, xa lạ với những tư tưởng trừu tượng viễn vông, tìm kiếm những giải pháp cá nhân thay cho ý thức công dân, và đặc biệt là tránh xa âm mưu thay đổi chế độ.
4. Phải chủ động trong việc mở rộng xã hội dân sự, thuần phục và trung hòa giai cấp trung lưu đang lớn mạnh (gọi là “co-optation”)…
Làm sao để trong mỗi tổ chức dân sự đều có chân rết của ta. Các tổ chức trung gian như mặt trận Tổ quốc, công đoàn, hội phụ nữ, các hội cựu chiến binh, các câu lạc bộ hưu trí… phải phát huy vai trò tối đa trong việc trung hòa những nhân tố nguy hiểm, điều hòa những xung đột nếu có giữa nhà nước và xã hội, giảm thiểu sự bất mãn của dân chúng…
Làm sao để xã hội dân sự vẫn được mở rộng nhưng theo hướng có kiểm soát của chúng ta, chứ không trở thành mối đe dọa.
Quan trọng hơn cả là chúng ta phải tiếp tục nuôi dưỡng nỗi sợ hãi – dù chỉ là nỗi sợ mơ hồ trong tiềm thức – nhưng đồng thời cũng không để cho nhân dân cảm thấy tuyệt vọng. Cho dù người dân có bất mãn về chuyện này chuyện kia thì vẫn làm cho họ nuôi hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Và phải làm điều này một cách hết sức tinh vi, kiên nhẫn, đôi lúc phải can đảm cắt bỏ những khối u trong đảng để làm nguội bớt nỗi tức giận của nhân dân.
Trong trường hợp này thì việc thả Nguyễn Việt Tiến và việc bắt giam hai nhà báo là sai lầm. Lẽ ra chúng ta phải không tiếc một số ít các đồng chí tham lam quá mức, biến họ thành dê tế thần để giành lại niềm tin của nhân dân, hoặc ít nhất cũng làm họ giảm bất mãn, trong nỗ lực chống tham nhũng của chúng ta.
Một người bất mãn cực độ là một người nguy hiểm. Một người tuyệt vọng đôi khi còn nguy hiểm hơn. Một người lạc quan, nhiều hy vọng, thì thường cũng là một người dễ bảo, yêu chuộng sự ổn định và do đó không có ý định phản kháng.
Chúng ta phải biết dùng mồi để nhử, đánh vào thói tham lam ích kỷ lẫn thói háo danh của người đời, vừa phải làm sao để tinh thần thực dụng và chủ nghĩa mánh mung chụp giật trở thành bản tính của dân tộc – vốn đã rã rời về ý chí, tan vỡ về niềm tin, chán ngán các loại ý thức hệ; nhưng đồng thời cũng phải chuẩn bị sẵn những cái van để dân chúng có chỗ giải tỏa ẩn ức.
Tuyệt đối không để sự bất mãn trong xã hội tích tụ lại vượt quá ngưỡng kiểm soát của chúng ta. Kiên quyết tiêu diệt mọi mầm mống có khả năng dẫn đến các loại hoạt động đối kháng có tổ chức, có sự phối hợp rộng rãi; tuyệt đối ngăn chặn khả năng huy động được đông đảo quần chúng tham gia.
Chúng ta phải nghiên cứu tất cả những tư tưởng gia vĩ đại trong việc chiếm đoạt quyền lực và duy trì vị trí độc tôn, từ Tôn Tử, Ngô Khởi, Trương Tử Phòng, Lý Tư… và Mao Trạch Đông ở phương Đông, cho đến Machiavelli – tác giả cuốn cẩm nang “The Prince” nổi tiếng ở phương Tây, thậm chí cả Napoleon, Hitler, Stalin… hoặc Hugo Chavez thời nay. Tất cả đều có những điều rất đáng để chúng ta học hỏi, từ nghệ thuật mị dân cho đến những thủ đoạn cứng – mềm linh hoạt trong việc đối phó với địch, và cả những sai lầm chiến thuật của các vị này.
Phải làm sao để chúng ta vẫn trấn áp được đối lập dân chủ, nhưng vẫn không làm sứt mẻ quan hệ ngoại giao đang ngày một tốt hơn với Hoa Kỳ và phương Tây – vốn là những kẻ đạo đức giả, duy lợi và thực dụng nhưng thích rao bán tấm áo “dân chủ tự do” cùng với những khẩu hiệu cao đẹp khác.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải khái quát những luận điểm của Machiavelli để có thể áp dụng cho một chế độ, một đảng phái có cơ cấu phức tạp, chứ không phải là một nhà độc tài quân phiệt giản đơn.
Một nhà độc tài dù tàn độc đến đâu, ranh ma đến đâu, thì cũng chỉ là một kim tự tháp trên sa mạc, tĩnh lặng và không tiến hóa – nên trước sau cũng sẽ để lộ sơ hở chết người. Nhưng một đảng chuyên quyền thì luôn luôn biến động, thay đổi và lớn lên không ngừng; biết bù đắp khiếm khuyết, che dấu yếu điểm, phô trương sức mạnh một cách vô cùng linh động… và đặc biệt có đủ tài lực và nhân lực để lan tỏa chân rết đến mọi ngõ ngách của xã hội, kiểm soát cả dạ dày lẫn linh hồn của nhân dân.
Bác Hồ (hay có thể là bác Lê Nin) đã dạy: người cách mạng phải không ngừng học hỏi, học từ nhân dân và học từ kẻ địch; phải không ngừng tiến hóa về mặt tư duy lẫn thủ đoạn để sống sót mà vươn lên trong bất cứ hoàn cảnh nào; phải luôn uyển chuyển và linh động để sẵn sàng thay máu đổi màu khi cần thiết, thậm chí sẵn sàng đào thải cả những đồng chí quá tham lam và ngu dốt có hại đến lợi ích chung của đảng. Đối với địch thủ thì phải thiên biến vạn hóa, ranh ma tàn độc đủ cả… và đặc biệt phải biết dùng hình nộm kết hợp với thủ đoạn đấu bò tót kiểu Tây Ban Nha để thu hút ám khí và sừng bò của đối thủ.
Trong lúc đối thủ tiêu hao lực lượng vì đánh vào những hình nộm rơm, hoặc phung phí thời gian và sức lực vào những mục tiêu viễn vông, thì chúng ta lạnh lùng quan sát, phân tích thấu đáo địch tình, ra đòn bất ngờ và hợp lý để địch chết không kịp ngáp.
Đặc biệt chúng ta ngầm khuyến khích những hành động tự sát theo kiểu “không thành công cũng thành nhân” – tất nhiên là phế nhân. Chúng ta cũng phải biết lắng nghe những phê phán của địch thủ mà thay đổi cho thích hợp. Kẻ đối địch luôn có những bài học quí giá mà chỉ có những người bản lĩnh và khôn ngoan mới nhìn ra.
Nếu kẻ địch lãng mạn viễn vông với những khẩu hiệu trừu tượng như “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do” … thì chúng ta phải thực tế với những tiêu chí cụ thể như “ổn định xã hội”, “tăng trưởng kinh tế”, “xóa đói giảm nghèo”…
Nếu kẻ địch hô hào những điều khó hiểu du nhập từ phương Tây như “đa nguyên”, “đa đảng”, “pháp trị”, “khai phóng”… thì chúng ta phải tích cực cổ vũ mô hình Nhân Trị của đấng Minh Quân – nhưng ở đây Minh Quân phải được hiểu là đảng cộng sản – cũng như đề cao những “giá trị Á châu” một cách khéo léo.
Phát Huy dân chủ cơ sở - tập trung
Chúng ta cũng phải phát huy “dân chủ cơ sở”, “dân chủ tập trung”, “dân chủ trong đảng”… để làm sao cho dân thấy đảng không phải là cái gì đó cao xa vời vợi, mà đảng cũng là dân, ở ngay trong dân, từ dân mà ra, đã và đang đồng hành cùng với dân.
Phải cho dân thấy là nếu đảng có xe hơi thì dân cũng có hon đa – chứ không phải đi bộ; nếu đảng có đô la thì dân cũng có tiền in hình Bác đủ tiêu xài – chứ không quá túng thiếu; nếu đảng có cao lương mỹ vị thì dân cũng có gạo ăn – không chết đói mà còn dư thừa để đem xuất khẩu.
Đặc biệt là phải tích cực tuyên truyền và giải thích để người dân hiểu được ý nghĩa của “dân chủ” theo cách có lợi cho chúng ta: “dân chủ” nghĩa là đảng luôn lắng nghe dân, phản ánh ý nguyện của dân (phần nào thôi) qua những chính sách vĩ mô và vi mô, thỏa mãn niềm tự ái của dân vì được dạy dỗ đảng, cũng như kích thích lòng tự hào dân tộc của dân để hướng nó vào những kẻ thù mơ hồ dấu mặt ở bên ngoài.
Đối thủ của chúng ta thường lãng mạn và nhiều nhiệt tình nhưng ít chịu học hỏi, hoặc nếu có học thì chỉ qua quýt đủ để thuộc lòng những khẩu hiệu trừu tượng như “nhân quyền”, “dân chủ”… rồi nhai đi nhai lại làm dân chúng phát nhàm. Nói chung, đối thủ của chúng ta thường chỉ biết đến một số cuốn cẩm nang về dân chủ có ngôn từ rất kêu, rất đẹp, nhưng nghèo nàn về phương pháp thực tế, lẫn lộn giữa cứu cánh và phương tiện.
Ngược lại, chúng ta cần phải tích cực nghiên cứu sâu sắc những trước tác của các học giả phương Tây về khoa học chính trị và kinh tế học. Chúng ta phải nhận thức được đã có rất nhiều những nghiên cứu khoa học về mối quan hệ biện chứng giữa “thể chế chính trị” và “phát triển kinh tế”.
Hai phạm trù “dân chủ” và “phát triển” có quan hệ hết sức phức tạp, phi tuyến, chứ không phải là quan hệ nhân – quả. Nghiên cứu kỹ về vấn đề này sẽ rất có lợi cho chúng ta trong việc chủ động phát triển kinh tế mà không cần phải “dân chủ hóa”.
Chúng ta cũng phải nhìn nhận một thực tế là: phát triển kinh tế làm phát sinh một số yếu tố hiểm nguy cho chế độ. Tuy nhiên, điều này còn tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, tùy thuộc vào khả năng “tháo ngòi nổ” của chúng ta, cũng như khả năng khai thác những yếu tố hiểm nguy này của đối lập dân chủ.
Chẳng hạn, học giả Daron Acemoglu của đại học MIT danh tiếng đã có nhiều phân tích về “nguồn gốc kinh tế của các chế độ độc tài và dân chủ”. Trong đó ông đã chỉ ra rằng phát triển kinh tế kèm theo việc phân bố của cải vật chất một cách tương đối công bằng, đồng thời với việc nới lỏng một cách chừng mực những tự do dân sự, thì bất mãn của xã hội sẽ không quá cao, do đó hoàn toàn có thể duy trì chế độ độc tài mà vẫn thúc đẩy kinh tế phát triển. Đó là trường hợp của Singapore, điển hình của một nhà nước độc tài sáng suốt.
Một ví dụ nữa là những nghiên cứu của Bruce Bueno de Mesquita, đã chỉ ra cho chúng ta những kinh nghiệm quí báu trong việc đàn áp cái gọi là “coordination goods”, tức là những yếu tố vốn không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, nhưng nếu được vận dụng bởi đối lập dân chủ thì lại trở thành những vũ khí đáng sợ. Đó là nghệ thuật “đàn áp có chọn lọc” mà tôi đã có dịp phân tích.
Giới trẻ và sinh viên học sinh
Một kết quả bất ngờ mà theo tôi cũng là một kinh nghiệm quí trên mặt trận tuyên truyền nhồi sọ: việc chúng ta bắt ép sinh viên phải học tập chủ nghĩa Marx – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã đem lại những kết quả ngoài mong ước.
Thành công của chúng ta không phải đã đạt được mục đích ban đầu là làm cho thế hệ trẻ tôn thờ thứ chủ nghĩa mà ngay cả chúng ta cũng không tin. Ngược lại, thành công của chúng ta là đã làm cho thế hệ trẻ chán ngán đến tận cổ khi phải học mãi một thứ ý thức hệ lỗi thời, bị nhồi nhét đến phản cảm những tư tưởng cũ kỹ. Nhờ vậy chúng ta đã đào tạo ra một thế hệ trẻ thờ ơ vô cảm với tất cả các loại tư tưởng và ý thức hệ, chai sạn với lý tưởng và hoài bão mà thanh niên thường có, trở nên thực dụng và ích kỷ hơn bao giờ hết.
Thế hệ trẻ hôm nay, ngoài cái đức tính thực dụng và tinh thần chụp giật, cũng như niềm khao khát tiền bạc, công danh, ám ảnh bởi chủ nghĩa hưởng thụ, thì chỉ còn le lói “tinh thần dân tộc” vẫn còn sót lại trong máu huyết của mỗi người Việt.
Đây là con dao hai lưỡi, là con giao long đang nằm yên, mà chúng ta cần phải biết lèo lái một cách khôn ngoan để không xảy ra một tiểu Thiên An Môn ở Ba Đình.
Dưới chế độ chuyên chế nào cũng vậy, sinh viên và trí thức trẻ luôn luôn là những kẻ nguy hiểm nhất, là ngòi nổ của quả bom, là kíp mìn hẹn giờ, là hạt nhân của các phong trào đấu tranh. Các cuộc cách mạng nhằm lật đổ chế độ độc tài bao giờ cũng do sinh viên và trí thức dẫn đầu; công nhân, nông dân, và các tầng lớp lao động khác chỉ là sức mạnh cơ bắp. Chỉ có trí thức và sinh viên mới đủ lý luận để huy động được đông đảo quần chúng, mới có lý tưởng để dấn thân, và mới có khả năng tổ chức và phối hợp.
Triệt tiêu được những phong trào sinh viên, cô lập được những trí thức phản kháng, chính là đánh vào đầu não chỉ huy của địch. Những thứ còn lại như “dân oan biểu tình”, “công nhân đình công”… chỉ là cơ bắp của một cơ thể đã bị liệt não.
Như trên đã nói, chúng ta đã thành công trong việc làm cho sinh viên trở nên lãnh cảm về các loại ý thức hệ, thờ ơ với những tư tưởng tự do khai phóng từ phương Tây. Chúng ta chỉ còn phải đối phó với tinh thần dân tộc của sinh viên đang có nguy cơ thức dậy, mục đích là để nó ngủ yên, nếu không phải lèo lái nó theo hướng có lợi cho chúng ta.
Trí thức
* Đối với tầng lớp trí thức, những biện pháp “vừa trấn áp vừa vuốt ve” từ xưa đến nay đã đem lại kết quả khả quan. Chúng ta đã duy trì được một tầng lớp trí thức hèn nhát, háo danh, và nếu không quá ngu dốt thiển cận thì cũng chỉ được trang bị bởi những kiến thức chắp vá, hổ lốn, lỗi thời.
* Nói chung, đa số trí thức của chúng ta đều hèn, đều biết phục tùng theo đúng tinh thần “phò chính thống” của sĩ phu xưa nay. Phần lớn những kẻ được coi là trí thức cũng mang nặng cái mặc cảm của việc học không đến nơi đến chốn, ít có khả năng sáng tạo, và so với trí thức phương Tây về cả tri thức lẫn dũng khí đều cách xa một trời một vực.
* Trí thức của chúng ta vẫn mãi mãi giữ thân phận học trò, kiểu sĩ hoạn mơ ước được phò minh chủ, hanh thông trên đường hoạn lộ, chứ không bao giờ vươn lên thành những nhà tư tưởng lỗi lạc.
* Tầm mức ảnh hưởng của trí thức đến xã hội không đáng kể, không dành được sự kính trọng từ các tầng lớp nhân dân, thậm chí còn bị người đời khinh bỉ bởi sự vô liêm sỉ và thói quen ném rác vào mặt nhau.
* Chỉ có một số ít trí thức vượt qua được cái vỏ ốc hèn nhát, nhưng thường là quá đà trở nên kiêu ngạo tự mãn, coi mình như núi cao sông sâu, là lương tâm thời đại. Những người này quả thật có dũng khí, nhưng cũng không đáng sợ lắm bởi đa phần đều có tâm mà không có tài, có đởm lược mà ít kiến thức.
* Đa phần trong số này cũng chỉ đến khi về hưu mới thu gom được dũng khí mà ra mặt đối đầu với chúng ta, do đó sức cũng đã tàn, lực cũng đã kiệt. Một số ít trẻ trung hơn, nhiệt huyết còn phương cương, thì lại chưa có kinh nghiệm trường đời, chưa được trang bị lý luận chu đáo, chưa có kiến thức về dân chủ sâu rộng. Với những kẻ này chúng ta đàn áp không nương tay, bỏ tù từ 3 đến 7 năm. Đó là phương cách giết gà từ trong trứng.
Thử tượng xem một tài năng trẻ phải thui chột những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời trong lao tù, cách ly với môi trường học vấn, gặm nhấm nỗi cô đơn thay cho việc học hành nghiên cứu, thì sao có thể phát triển hết khả năng? Khi ra tù thì cũng đã quá tuổi trung niên, mệt mỏi, chán chường. Nếu vẫn còn dũng khí thì cũng đã tụt hậu về kiến thức, bị trì néo bởi gánh nặng gia đình, còn làm gì được nữa?
--------------------------------------------------------------------------------
Với những phân tích như trên tôi cho rằng chế độ của chúng ta vẫn còn bền vững ít nhất thêm hai mươi năm nữa. Nhưng thời thế đổi thay. Chúng ta không thể kiêu ngạo mà tin rằng sẽ trường tồn vĩnh viễn.
Chúng ta luôn học hỏi và thay đổi để sống còn và vươn lên, nhưng cũng nên biết rằng đối thủ của chúng ta có lẽ cũng không quá ngu ngốc. Nếu kẻ địch cũng nhìn ra được mạnh – yếu của chúng ta, cũng biết tự đổi thay để thích nghi, cũng biết học cách đấu tranh có phương pháp, có tổ chức, có chiến lược… thì chuyện gì sẽ xảy ra sau hai mươi năm nữa thật khó mà biết được.
Đó là một cuộc đua đường trường mà kẻ nào dai sức hơn, bền chí hơn, khôn ngoan hơn, thì sẽ đến đích trước.
Chúc các đồng chí chân cứng đá mềm và luôn nhớ lời dạy của Hồ Chủ Tịch: “khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
http://www.tiengnoigiaodan.net/anews08/0808_199.html
Tôn Giáo Và Chính Trị
NHÌN LẠI BI KỊCH CỦA CON NGƯỜI TRƯỚC TỘI ÁC CỦA QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ VÀ NHỮNG QUAN NIỆM SAI LẦM VỀ TÔN GIÁO VÀ CHÍNH TRỊ (Nguyễn Anh Tuấn)
(Bài số I) http://www.tiengnoigiaodan.net/anews/0805_127.html
NAT_ton_giao_va_chinh_tri_1.pdf
(Bài số II) http://www.tiengnoigiaodan.net/anews/0806_067.html
NAT_ton_giao_va_chinh_tri_2.pdf
(Bài số III) http://www.tiengnoigiaodan.net/anews/0807_020.html
NAT_ton_giao_va_chinh_tri_3.pdf
GIÁO HỘI TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA VÀ THÂN PHẬN CON NGƯỜI TRONG CÁC CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI (Bài số IV)
http://www.tiengnoigiaodan.net/anews08/0808_241.html
NAT_ton_giao_va_chinh_tri_4.pdf
- Nghiêm túc so sánh mục tiêu và kết quả 63 năm Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
- VTS: sách lược & thủ đoạn của cs đ/v tôn giáo
" Trí thức" trong đcsvn
Bao_cao_hop_mat_kieu_van.pdf
Lưu trữ theo chế độ tài liệu tuyệt mật.
LTS.- Đây là một tài liệu tối mật vừa được chuyển ra hải ngoại. Những điều viết trong tài liệu này đã được CSVG áp dụng thi hành trong và ngoài nước từ 33 năm nay và tạimiền Băc từ năm 1954. Rất mong các cộng đồng người tỵ nạn khắp nơi tại hải ngoại nghiên cứu để tìm cach bẻ gãy nghị quyết 36 của VGCS. Đặc biệt với người Việt Nam trong nước đang tranh đấu cho dân chủ tự do cho quê hương nên học hỏi thêm để tìm cách tránh né những mưu mô gian xảo của nhóm Việt Gian bán nước này.
--------------------------------------------------------------------------------
Thưa các đồng chí,
Đảng quang vinh của chúng ta muốn tồn tại và phát triển, giữ vai trò là đảng tiên phong và duy nhất lãnh đạo đất nước, thì có mấy mục tiêu quan trọng sau đây phải được quan tâm đúng mức:
1. Phải làm cho dân chúng vừa yêu vừa sợ. Nếu không thể làm cho người dân yêu mến – điều mà tôi e là sự thật cay đắng cần chấp nhận – thì cũng phải tuyệt đối duy trì nỗi sợ hãi để họ không bao giờ có đủ ý chí mà nổi loạn.
2. Phải giữ cho cái gọi là “phong trào dân chủ đối lập” không thể trở thành phong trào đúng nghĩa, không thể bén rễ và lan rộng.
Phải làm sao để nó chỉ là hoạt động manh mún, rời rạc, tự phát của các cá nhân đơn lẻ; làm cho có nhiều “lãnh tụ” mà ít hoặc không có quần chúng; có nhiều “nhân sĩ trí thức” mà ít hoặc không có một tổ chức nào có thực lực; có nhiều những hoạt động lãng mạn hời hợt có tính phô trương – mà người dân có biết đến cũng chỉ mỉm cười ý nhị – chứ ít hoặc không có những hoạt động thiết thực có tầm mức ảnh hưởng sâu rộng đến xã hội; có thật nhiều những hoạt động “chống cộng cực đoan” có tính chất phá hoạt từ bên trong, gây phản cảm đối với người dân lao động, thậm chí làm cho những gia đình cách mạng và đội ngũ cựu chiến binh phẫn nộ…
Tóm lại, phải làm cho người dân nếu không quay lưng thì cũng thờ ơ với cái gọi là “đấu tranh dân chủ”. Cụ thể như thế nào thì tôi đã có dịp trình bày.
3. Phải chủ động trong việc nâng cao dân trí để làm bàn đạp mà phát triển kinh tế, nhưng lại phải lèo lái để “dân trí cao” không đồng nghĩa với “ý thức dân chủ cao”.
Phải làm sao để chất lượng giáo dục bậc đại học được cải thiện nhưng đa số sinh viên phải trở nên thực dụng hơn, có tinh thần “entrepreneurship” – khao khát tiền bạc và công danh, mạo hiểm và sáng tạo trong kinh doanh, cầu tiến trong sự nghiệp riêng, tôn thờ Bill Gates và chủ nghĩa tiêu thụ – nhưng đồng thời cũng tuyệt đối thờ ơ với những lý tưởng và hoài bão cải biến xã hội, xa lạ với những tư tưởng trừu tượng viễn vông, tìm kiếm những giải pháp cá nhân thay cho ý thức công dân, và đặc biệt là tránh xa âm mưu thay đổi chế độ.
4. Phải chủ động trong việc mở rộng xã hội dân sự, thuần phục và trung hòa giai cấp trung lưu đang lớn mạnh (gọi là “co-optation”)…
Làm sao để trong mỗi tổ chức dân sự đều có chân rết của ta. Các tổ chức trung gian như mặt trận Tổ quốc, công đoàn, hội phụ nữ, các hội cựu chiến binh, các câu lạc bộ hưu trí… phải phát huy vai trò tối đa trong việc trung hòa những nhân tố nguy hiểm, điều hòa những xung đột nếu có giữa nhà nước và xã hội, giảm thiểu sự bất mãn của dân chúng…
Làm sao để xã hội dân sự vẫn được mở rộng nhưng theo hướng có kiểm soát của chúng ta, chứ không trở thành mối đe dọa.
Quan trọng hơn cả là chúng ta phải tiếp tục nuôi dưỡng nỗi sợ hãi – dù chỉ là nỗi sợ mơ hồ trong tiềm thức – nhưng đồng thời cũng không để cho nhân dân cảm thấy tuyệt vọng. Cho dù người dân có bất mãn về chuyện này chuyện kia thì vẫn làm cho họ nuôi hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Và phải làm điều này một cách hết sức tinh vi, kiên nhẫn, đôi lúc phải can đảm cắt bỏ những khối u trong đảng để làm nguội bớt nỗi tức giận của nhân dân.
Trong trường hợp này thì việc thả Nguyễn Việt Tiến và việc bắt giam hai nhà báo là sai lầm. Lẽ ra chúng ta phải không tiếc một số ít các đồng chí tham lam quá mức, biến họ thành dê tế thần để giành lại niềm tin của nhân dân, hoặc ít nhất cũng làm họ giảm bất mãn, trong nỗ lực chống tham nhũng của chúng ta.
Một người bất mãn cực độ là một người nguy hiểm. Một người tuyệt vọng đôi khi còn nguy hiểm hơn. Một người lạc quan, nhiều hy vọng, thì thường cũng là một người dễ bảo, yêu chuộng sự ổn định và do đó không có ý định phản kháng.
Chúng ta phải biết dùng mồi để nhử, đánh vào thói tham lam ích kỷ lẫn thói háo danh của người đời, vừa phải làm sao để tinh thần thực dụng và chủ nghĩa mánh mung chụp giật trở thành bản tính của dân tộc – vốn đã rã rời về ý chí, tan vỡ về niềm tin, chán ngán các loại ý thức hệ; nhưng đồng thời cũng phải chuẩn bị sẵn những cái van để dân chúng có chỗ giải tỏa ẩn ức.
Tuyệt đối không để sự bất mãn trong xã hội tích tụ lại vượt quá ngưỡng kiểm soát của chúng ta. Kiên quyết tiêu diệt mọi mầm mống có khả năng dẫn đến các loại hoạt động đối kháng có tổ chức, có sự phối hợp rộng rãi; tuyệt đối ngăn chặn khả năng huy động được đông đảo quần chúng tham gia.
Chúng ta phải nghiên cứu tất cả những tư tưởng gia vĩ đại trong việc chiếm đoạt quyền lực và duy trì vị trí độc tôn, từ Tôn Tử, Ngô Khởi, Trương Tử Phòng, Lý Tư… và Mao Trạch Đông ở phương Đông, cho đến Machiavelli – tác giả cuốn cẩm nang “The Prince” nổi tiếng ở phương Tây, thậm chí cả Napoleon, Hitler, Stalin… hoặc Hugo Chavez thời nay. Tất cả đều có những điều rất đáng để chúng ta học hỏi, từ nghệ thuật mị dân cho đến những thủ đoạn cứng – mềm linh hoạt trong việc đối phó với địch, và cả những sai lầm chiến thuật của các vị này.
Phải làm sao để chúng ta vẫn trấn áp được đối lập dân chủ, nhưng vẫn không làm sứt mẻ quan hệ ngoại giao đang ngày một tốt hơn với Hoa Kỳ và phương Tây – vốn là những kẻ đạo đức giả, duy lợi và thực dụng nhưng thích rao bán tấm áo “dân chủ tự do” cùng với những khẩu hiệu cao đẹp khác.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải khái quát những luận điểm của Machiavelli để có thể áp dụng cho một chế độ, một đảng phái có cơ cấu phức tạp, chứ không phải là một nhà độc tài quân phiệt giản đơn.
Một nhà độc tài dù tàn độc đến đâu, ranh ma đến đâu, thì cũng chỉ là một kim tự tháp trên sa mạc, tĩnh lặng và không tiến hóa – nên trước sau cũng sẽ để lộ sơ hở chết người. Nhưng một đảng chuyên quyền thì luôn luôn biến động, thay đổi và lớn lên không ngừng; biết bù đắp khiếm khuyết, che dấu yếu điểm, phô trương sức mạnh một cách vô cùng linh động… và đặc biệt có đủ tài lực và nhân lực để lan tỏa chân rết đến mọi ngõ ngách của xã hội, kiểm soát cả dạ dày lẫn linh hồn của nhân dân.
Bác Hồ (hay có thể là bác Lê Nin) đã dạy: người cách mạng phải không ngừng học hỏi, học từ nhân dân và học từ kẻ địch; phải không ngừng tiến hóa về mặt tư duy lẫn thủ đoạn để sống sót mà vươn lên trong bất cứ hoàn cảnh nào; phải luôn uyển chuyển và linh động để sẵn sàng thay máu đổi màu khi cần thiết, thậm chí sẵn sàng đào thải cả những đồng chí quá tham lam và ngu dốt có hại đến lợi ích chung của đảng. Đối với địch thủ thì phải thiên biến vạn hóa, ranh ma tàn độc đủ cả… và đặc biệt phải biết dùng hình nộm kết hợp với thủ đoạn đấu bò tót kiểu Tây Ban Nha để thu hút ám khí và sừng bò của đối thủ.
Trong lúc đối thủ tiêu hao lực lượng vì đánh vào những hình nộm rơm, hoặc phung phí thời gian và sức lực vào những mục tiêu viễn vông, thì chúng ta lạnh lùng quan sát, phân tích thấu đáo địch tình, ra đòn bất ngờ và hợp lý để địch chết không kịp ngáp.
Đặc biệt chúng ta ngầm khuyến khích những hành động tự sát theo kiểu “không thành công cũng thành nhân” – tất nhiên là phế nhân. Chúng ta cũng phải biết lắng nghe những phê phán của địch thủ mà thay đổi cho thích hợp. Kẻ đối địch luôn có những bài học quí giá mà chỉ có những người bản lĩnh và khôn ngoan mới nhìn ra.
Nếu kẻ địch lãng mạn viễn vông với những khẩu hiệu trừu tượng như “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do” … thì chúng ta phải thực tế với những tiêu chí cụ thể như “ổn định xã hội”, “tăng trưởng kinh tế”, “xóa đói giảm nghèo”…
Nếu kẻ địch hô hào những điều khó hiểu du nhập từ phương Tây như “đa nguyên”, “đa đảng”, “pháp trị”, “khai phóng”… thì chúng ta phải tích cực cổ vũ mô hình Nhân Trị của đấng Minh Quân – nhưng ở đây Minh Quân phải được hiểu là đảng cộng sản – cũng như đề cao những “giá trị Á châu” một cách khéo léo.
Phát Huy dân chủ cơ sở - tập trung
Chúng ta cũng phải phát huy “dân chủ cơ sở”, “dân chủ tập trung”, “dân chủ trong đảng”… để làm sao cho dân thấy đảng không phải là cái gì đó cao xa vời vợi, mà đảng cũng là dân, ở ngay trong dân, từ dân mà ra, đã và đang đồng hành cùng với dân.
Phải cho dân thấy là nếu đảng có xe hơi thì dân cũng có hon đa – chứ không phải đi bộ; nếu đảng có đô la thì dân cũng có tiền in hình Bác đủ tiêu xài – chứ không quá túng thiếu; nếu đảng có cao lương mỹ vị thì dân cũng có gạo ăn – không chết đói mà còn dư thừa để đem xuất khẩu.
Đặc biệt là phải tích cực tuyên truyền và giải thích để người dân hiểu được ý nghĩa của “dân chủ” theo cách có lợi cho chúng ta: “dân chủ” nghĩa là đảng luôn lắng nghe dân, phản ánh ý nguyện của dân (phần nào thôi) qua những chính sách vĩ mô và vi mô, thỏa mãn niềm tự ái của dân vì được dạy dỗ đảng, cũng như kích thích lòng tự hào dân tộc của dân để hướng nó vào những kẻ thù mơ hồ dấu mặt ở bên ngoài.
Đối thủ của chúng ta thường lãng mạn và nhiều nhiệt tình nhưng ít chịu học hỏi, hoặc nếu có học thì chỉ qua quýt đủ để thuộc lòng những khẩu hiệu trừu tượng như “nhân quyền”, “dân chủ”… rồi nhai đi nhai lại làm dân chúng phát nhàm. Nói chung, đối thủ của chúng ta thường chỉ biết đến một số cuốn cẩm nang về dân chủ có ngôn từ rất kêu, rất đẹp, nhưng nghèo nàn về phương pháp thực tế, lẫn lộn giữa cứu cánh và phương tiện.
Ngược lại, chúng ta cần phải tích cực nghiên cứu sâu sắc những trước tác của các học giả phương Tây về khoa học chính trị và kinh tế học. Chúng ta phải nhận thức được đã có rất nhiều những nghiên cứu khoa học về mối quan hệ biện chứng giữa “thể chế chính trị” và “phát triển kinh tế”.
Hai phạm trù “dân chủ” và “phát triển” có quan hệ hết sức phức tạp, phi tuyến, chứ không phải là quan hệ nhân – quả. Nghiên cứu kỹ về vấn đề này sẽ rất có lợi cho chúng ta trong việc chủ động phát triển kinh tế mà không cần phải “dân chủ hóa”.
Chúng ta cũng phải nhìn nhận một thực tế là: phát triển kinh tế làm phát sinh một số yếu tố hiểm nguy cho chế độ. Tuy nhiên, điều này còn tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, tùy thuộc vào khả năng “tháo ngòi nổ” của chúng ta, cũng như khả năng khai thác những yếu tố hiểm nguy này của đối lập dân chủ.
Chẳng hạn, học giả Daron Acemoglu của đại học MIT danh tiếng đã có nhiều phân tích về “nguồn gốc kinh tế của các chế độ độc tài và dân chủ”. Trong đó ông đã chỉ ra rằng phát triển kinh tế kèm theo việc phân bố của cải vật chất một cách tương đối công bằng, đồng thời với việc nới lỏng một cách chừng mực những tự do dân sự, thì bất mãn của xã hội sẽ không quá cao, do đó hoàn toàn có thể duy trì chế độ độc tài mà vẫn thúc đẩy kinh tế phát triển. Đó là trường hợp của Singapore, điển hình của một nhà nước độc tài sáng suốt.
Một ví dụ nữa là những nghiên cứu của Bruce Bueno de Mesquita, đã chỉ ra cho chúng ta những kinh nghiệm quí báu trong việc đàn áp cái gọi là “coordination goods”, tức là những yếu tố vốn không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, nhưng nếu được vận dụng bởi đối lập dân chủ thì lại trở thành những vũ khí đáng sợ. Đó là nghệ thuật “đàn áp có chọn lọc” mà tôi đã có dịp phân tích.
Giới trẻ và sinh viên học sinh
Một kết quả bất ngờ mà theo tôi cũng là một kinh nghiệm quí trên mặt trận tuyên truyền nhồi sọ: việc chúng ta bắt ép sinh viên phải học tập chủ nghĩa Marx – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã đem lại những kết quả ngoài mong ước.
Thành công của chúng ta không phải đã đạt được mục đích ban đầu là làm cho thế hệ trẻ tôn thờ thứ chủ nghĩa mà ngay cả chúng ta cũng không tin. Ngược lại, thành công của chúng ta là đã làm cho thế hệ trẻ chán ngán đến tận cổ khi phải học mãi một thứ ý thức hệ lỗi thời, bị nhồi nhét đến phản cảm những tư tưởng cũ kỹ. Nhờ vậy chúng ta đã đào tạo ra một thế hệ trẻ thờ ơ vô cảm với tất cả các loại tư tưởng và ý thức hệ, chai sạn với lý tưởng và hoài bão mà thanh niên thường có, trở nên thực dụng và ích kỷ hơn bao giờ hết.
Thế hệ trẻ hôm nay, ngoài cái đức tính thực dụng và tinh thần chụp giật, cũng như niềm khao khát tiền bạc, công danh, ám ảnh bởi chủ nghĩa hưởng thụ, thì chỉ còn le lói “tinh thần dân tộc” vẫn còn sót lại trong máu huyết của mỗi người Việt.
Đây là con dao hai lưỡi, là con giao long đang nằm yên, mà chúng ta cần phải biết lèo lái một cách khôn ngoan để không xảy ra một tiểu Thiên An Môn ở Ba Đình.
Dưới chế độ chuyên chế nào cũng vậy, sinh viên và trí thức trẻ luôn luôn là những kẻ nguy hiểm nhất, là ngòi nổ của quả bom, là kíp mìn hẹn giờ, là hạt nhân của các phong trào đấu tranh. Các cuộc cách mạng nhằm lật đổ chế độ độc tài bao giờ cũng do sinh viên và trí thức dẫn đầu; công nhân, nông dân, và các tầng lớp lao động khác chỉ là sức mạnh cơ bắp. Chỉ có trí thức và sinh viên mới đủ lý luận để huy động được đông đảo quần chúng, mới có lý tưởng để dấn thân, và mới có khả năng tổ chức và phối hợp.
Triệt tiêu được những phong trào sinh viên, cô lập được những trí thức phản kháng, chính là đánh vào đầu não chỉ huy của địch. Những thứ còn lại như “dân oan biểu tình”, “công nhân đình công”… chỉ là cơ bắp của một cơ thể đã bị liệt não.
Như trên đã nói, chúng ta đã thành công trong việc làm cho sinh viên trở nên lãnh cảm về các loại ý thức hệ, thờ ơ với những tư tưởng tự do khai phóng từ phương Tây. Chúng ta chỉ còn phải đối phó với tinh thần dân tộc của sinh viên đang có nguy cơ thức dậy, mục đích là để nó ngủ yên, nếu không phải lèo lái nó theo hướng có lợi cho chúng ta.
Trí thức
* Đối với tầng lớp trí thức, những biện pháp “vừa trấn áp vừa vuốt ve” từ xưa đến nay đã đem lại kết quả khả quan. Chúng ta đã duy trì được một tầng lớp trí thức hèn nhát, háo danh, và nếu không quá ngu dốt thiển cận thì cũng chỉ được trang bị bởi những kiến thức chắp vá, hổ lốn, lỗi thời.
* Nói chung, đa số trí thức của chúng ta đều hèn, đều biết phục tùng theo đúng tinh thần “phò chính thống” của sĩ phu xưa nay. Phần lớn những kẻ được coi là trí thức cũng mang nặng cái mặc cảm của việc học không đến nơi đến chốn, ít có khả năng sáng tạo, và so với trí thức phương Tây về cả tri thức lẫn dũng khí đều cách xa một trời một vực.
* Trí thức của chúng ta vẫn mãi mãi giữ thân phận học trò, kiểu sĩ hoạn mơ ước được phò minh chủ, hanh thông trên đường hoạn lộ, chứ không bao giờ vươn lên thành những nhà tư tưởng lỗi lạc.
* Tầm mức ảnh hưởng của trí thức đến xã hội không đáng kể, không dành được sự kính trọng từ các tầng lớp nhân dân, thậm chí còn bị người đời khinh bỉ bởi sự vô liêm sỉ và thói quen ném rác vào mặt nhau.
* Chỉ có một số ít trí thức vượt qua được cái vỏ ốc hèn nhát, nhưng thường là quá đà trở nên kiêu ngạo tự mãn, coi mình như núi cao sông sâu, là lương tâm thời đại. Những người này quả thật có dũng khí, nhưng cũng không đáng sợ lắm bởi đa phần đều có tâm mà không có tài, có đởm lược mà ít kiến thức.
* Đa phần trong số này cũng chỉ đến khi về hưu mới thu gom được dũng khí mà ra mặt đối đầu với chúng ta, do đó sức cũng đã tàn, lực cũng đã kiệt. Một số ít trẻ trung hơn, nhiệt huyết còn phương cương, thì lại chưa có kinh nghiệm trường đời, chưa được trang bị lý luận chu đáo, chưa có kiến thức về dân chủ sâu rộng. Với những kẻ này chúng ta đàn áp không nương tay, bỏ tù từ 3 đến 7 năm. Đó là phương cách giết gà từ trong trứng.
Thử tượng xem một tài năng trẻ phải thui chột những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời trong lao tù, cách ly với môi trường học vấn, gặm nhấm nỗi cô đơn thay cho việc học hành nghiên cứu, thì sao có thể phát triển hết khả năng? Khi ra tù thì cũng đã quá tuổi trung niên, mệt mỏi, chán chường. Nếu vẫn còn dũng khí thì cũng đã tụt hậu về kiến thức, bị trì néo bởi gánh nặng gia đình, còn làm gì được nữa?
--------------------------------------------------------------------------------
Với những phân tích như trên tôi cho rằng chế độ của chúng ta vẫn còn bền vững ít nhất thêm hai mươi năm nữa. Nhưng thời thế đổi thay. Chúng ta không thể kiêu ngạo mà tin rằng sẽ trường tồn vĩnh viễn.
Chúng ta luôn học hỏi và thay đổi để sống còn và vươn lên, nhưng cũng nên biết rằng đối thủ của chúng ta có lẽ cũng không quá ngu ngốc. Nếu kẻ địch cũng nhìn ra được mạnh – yếu của chúng ta, cũng biết tự đổi thay để thích nghi, cũng biết học cách đấu tranh có phương pháp, có tổ chức, có chiến lược… thì chuyện gì sẽ xảy ra sau hai mươi năm nữa thật khó mà biết được.
Đó là một cuộc đua đường trường mà kẻ nào dai sức hơn, bền chí hơn, khôn ngoan hơn, thì sẽ đến đích trước.
Chúc các đồng chí chân cứng đá mềm và luôn nhớ lời dạy của Hồ Chủ Tịch: “khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
http://www.tiengnoigiaodan.net/anews08/0808_199.html
Tôn Giáo Và Chính Trị
NHÌN LẠI BI KỊCH CỦA CON NGƯỜI TRƯỚC TỘI ÁC CỦA QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ VÀ NHỮNG QUAN NIỆM SAI LẦM VỀ TÔN GIÁO VÀ CHÍNH TRỊ (Nguyễn Anh Tuấn)
(Bài số I) http://www.tiengnoigiaodan.net/anews/0805_127.html
NAT_ton_giao_va_chinh_tri_1.pdf
(Bài số II) http://www.tiengnoigiaodan.net/anews/0806_067.html
NAT_ton_giao_va_chinh_tri_2.pdf
(Bài số III) http://www.tiengnoigiaodan.net/anews/0807_020.html
NAT_ton_giao_va_chinh_tri_3.pdf
GIÁO HỘI TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA VÀ THÂN PHẬN CON NGƯỜI TRONG CÁC CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI (Bài số IV)
http://www.tiengnoigiaodan.net/anews08/0808_241.html
NAT_ton_giao_va_chinh_tri_4.pdf
- Nghiêm túc so sánh mục tiêu và kết quả 63 năm Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
- VTS: sách lược & thủ đoạn của cs đ/v tôn giáo
Saturday, August 30, 2008
Séisme dans le sud-ouest de la Chine, au moins 22 morts
REUTERS | 30.08.2008 | 18:30
SHANGHAI (Reuters) - Un séisme a touché samedi les provinces chinoises du Sichuan et du Yunnan, tuant 22 personnes et faisant au moins 126 blessés, rapportent des médias locaux.
Près d'un millier d'habitations ont été détruites et 400 autres endommagées, alors que des dizaines de victimes ont été ensevelies sous des décombres, écrit l'agence officielle Chine nouvelle.
"Beaucoup de maisons de la région se sont effondrées", a dit un responsable de la ville de Huili, Qi Kaihong, à la télévision chinoise.
L'épicentre du tremblement de terre, qui s'est produit aux alentours de 16h30 locales (07h30 GMT), se situait à une trentaine de kilomètres au sud-est de Panzhihua, à proximité de la frontière entre le Sichuan et le Yunnan, selon l'Institut géologique américain (USGS).
L'USGS a noté une magnitude de 5,6 sur l'échelle de Richter, Chine nouvelle rapportant de son côté 6,1.
En mai, un violent séisme avait ravagé une partie de la province du Sichuan, faisant près de 70.000 victimes.
Edmund Klamann et Andrew Torchia, version française Olivier Guillemain
http://tempsreel.nouvelobs.com/depeches/international/asiepacifique/20080830.REU8085/seisme_dans_le_sudouest_de_la_chine_au_moins_22_morts.html
SHANGHAI (Reuters) - Un séisme a touché samedi les provinces chinoises du Sichuan et du Yunnan, tuant 22 personnes et faisant au moins 126 blessés, rapportent des médias locaux.
Près d'un millier d'habitations ont été détruites et 400 autres endommagées, alors que des dizaines de victimes ont été ensevelies sous des décombres, écrit l'agence officielle Chine nouvelle.
"Beaucoup de maisons de la région se sont effondrées", a dit un responsable de la ville de Huili, Qi Kaihong, à la télévision chinoise.
L'épicentre du tremblement de terre, qui s'est produit aux alentours de 16h30 locales (07h30 GMT), se situait à une trentaine de kilomètres au sud-est de Panzhihua, à proximité de la frontière entre le Sichuan et le Yunnan, selon l'Institut géologique américain (USGS).
L'USGS a noté une magnitude de 5,6 sur l'échelle de Richter, Chine nouvelle rapportant de son côté 6,1.
En mai, un violent séisme avait ravagé une partie de la province du Sichuan, faisant près de 70.000 victimes.
Edmund Klamann et Andrew Torchia, version française Olivier Guillemain
http://tempsreel.nouvelobs.com/depeches/international/asiepacifique/20080830.REU8085/seisme_dans_le_sudouest_de_la_chine_au_moins_22_morts.html
NHÌN LẠI BI KỊCH CỦA CON NGƯỜI TRƯỚC TỘI ÁC CỦA QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ VÀ NHỮNG QUAN NIỆM SAI LẦM VỀ TÔN GIÁO VÀ CHÍNH TRỊ
(Bài số I)
Nguyễn Anh Tuấn (Political Scientist)/ Đại diện nhóm Vận Động Hòa Đồng Tôn Giáo và Dân Tộc
QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ
Roland Stromberg nhìn Arnold Toynbee (1889-1975) như "một tiên tri về sự hòa đồng hợp nhất của tất cả nhân loại". Toynbee là một sử gia người Anh. Ông chuyên nghiên cứu về văn minh và tôn giáo. Ông cho rằng nghiên cứu lịch sử chính xác nhất là nắm được mối tương quan liên hệ đến sự học nơi các nền văn minh bằng cách đáp ứng lại những kinh nghiệm thử thách bằng một tâm hồn sáng tạo. Toynbee đặc biệt nghiên cứu về "sự suy đồi, hư hỏng thê thảm của lịch sử con người" (a terrible perversion of human history).
Nếu những ai từng quan tâm đến sự sống và sự chết của chững con người, những người đó không thể không quan tâm đến lịch sử. Lịch sử của một quốc gia thường gắn liền với lịch sử với các quốc gia lân bang, hay gắn liền với cả thế giới. Đó là trường hợp của Việt Nam -- một cửa ngõ giao thoa giữa các nền văn minh, văn hóa và tôn giáo của cả Đông Phương vả Tây Phương. Bên cạnh những luồng ánh sáng văn minh chói lòa của Lão - Phật - Khổng, cũng như văn minh của Cựu Ước và Tân Ước sau này -- chính là những "suy đồi, hư hỏng thê thảm của lịch sử nhân loại", tất cả đều đổ vào Việt Nam từ hơn 2000 năm qua để ngày nay Việt Nam trở thành hội chứng của văn minh nhân loại (Syndrome of Human Civilization). Hội chứng này tạo ra một bi kịch nhân sinh hãi hùng nhất của lịch sử văn minh nhân loại. Trong hơn hai ngàn năm, kể từ đời Tần, Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, rồi cuối cùng là nhà Thanh, đều đã xua quân xâm lăng và đặt ách thống trị cực kỳ khắc nghiệt lên đầu lên cổ người dân Việt. Sau đó là thực dân Pháp, và cuối cùng là hàng ngũ quốc tế Cộng Sản -- tất cả đều đúng như Arnold Toynbee đã nói: "sự suy đồi hư hỏng thê thảm của lịch sử con người" đã đổ tràn trên dòng sử mệnh Việt.
Không chỉ có con người thuộc dòng giống Việt chịu thử thách kinh hoàng -- mà cả nền văn minh tinh thần của Hùng Gia Đại Việt tối cổ từ hơn 4000 năm qua cũng chịu chung số phận đau thương với người dân đất Việt. Sống trên những thử thách hãi hùng triền miên như thế, đời sống con người còn đâu lễ nghĩa, còn đâu nhân tính, nhân cách, còn đâu nhân phẩm và còn đâu nhân tâm nữa?
Thật đúng như Giambattista Vico (1668-1774) đã có lần nhận định: "Lịch sử của con người có thể biết được; bởi vì chính con người đã làm nên lịch sử; cũng như vũ trụ thiên nhiên mà chúng ta biết từ đấng Tạo Hóa; bởi vì chính đấng Tạo Hóa đã sáng tạo ra nó."
Ngày nay nhìn vào lịch sử phát triển của cả hai nền văn minh Đông Phương và Tây Phương từ 2500 năm qua, thì đều thấy các dòng lịch sử ấy đều do con người làm ra.
* Những con người ấy là ai, tại sao họ làm được những điều như thế?
* Ai là những kẻ tội đồ cho những suy đồi hư hỏng thê thảm trong lịch sử?
* Ai đã tạo ra những bi kịch não nề cho con người?
* Nếu mục tiêu tối hậu của Thượng Đế là cứu vãn nhân tính cho tất cả nhân loại thì con người phải làm gì để tự cứu vãn chính mình ra khỏi sự suy đồi hư hỏng thê thảm trong lịch sử?
* Muốn cứu vãn nhân tính cho con người thì trông vào thế quyền hay thần quyền?
Toynbee chú tâm tới không phải con người, nhà nước, mà chú tâm tới văn minh. Ông định nghĩa nó trên những ý nghĩa và giá trị tinh thần. Một nền văn minh có thể được định nghĩa như một nỗ lực để tạo nên một xã hội trong đó tất cả nhân loại sống với nhau trong cảnh thái hòa hợp nhất như những thành viên của một cơ cấu duy nhất -- tất cả thành một gia đình, gia đình nhân loại (global family). Nhìn tôn giáo, Toynbee cho rằng, "tôn giáo cao cả đã giải phóng con người thoát khỏi tù ngục lao lung trong đời sống xã hội mà họ đã thừa hưởng từ tổ tiên và tiền nhân của họ. Đó là điều đã được nói đến như Thượng Đế đã đem đến cho lịch sử, coi đời sống con người như một hiện thân của đời sống tự do phóng khoáng của tâm linh đã được đấng Tạo Hóa dựng lên để vui hưởng niềm hạnh phúc bất tận sau này."
NHỮNG THỬ THÁCH CỦA VĂN MINH ĐÔNG PHƯƠNG
Tại Đông Phương, nơi chiếc nôi văn minh tinh thần đã sản sinh ra ba dòng đạo lý của Tam Giáo, nhưng kể từ Tần Thủy Hoàng đốt sách và chôn học trò để đem hình pháp và bạo lực vào chính trị từ hơn 2000 năm qua, thì kể từ đó đạo lý chính trị của Nghiêu - Thuấn, Văn - Vũ, Chu Công, Khổng Tử đặt ra đã bắt đầu tàn lụi để cho các chế độ quân chủ phong kiến thống trị các dân tộc Đông Phương suốt bao ngàn năm qua. Từ ngày Đổng Trọng Thư đặt ra trật tự quân thần, tức ba giòng mối chính trong xã hội là Quân - Sư - Phụ thì Nhân - Lễ - Nghĩa -Trí - Tín cũng không còn được các vương quyền và các nho quan từ đời nhà Hán đến đời nhà Thanh chú tâm nữa. Vì thế đạo lý của Tam Giáo vẫn còn sống trong dân gian, nhưng đã thực sự chết trong đời sống chính trị và chết luôn trong lịch sử con người Đông Phương.
Nhân trị, đức trị và lễ trị rút ra từ ngũ kinh của Nho Giáo chỉ còn là hư văn cho bọn nho quan tầm chương tích cú để tìm kiếm bả lợi danh ích kỷ cho riêng thân mình. Hình pháp và bạo lực của đao kiếm cũng như trật tự quân thần là quân - sư - phụ trở thành phương tiện hữu hiệu để biện minh sự chính thống và chính danh cho các vương quyền và nho quan bảo vệ những chiếc ngai vàng mục nát của họ. Đó là chỗ tai hại cho tinh thần tôn quân; không phải của Nho Giáo; mà là của TẦN NHO, HÁN NHO, TỐNG NHO hay THANH NHO suốt bao ngàn năm qua.
Vì thế xưa Phu Tử thường nói: "Quân tử có dũng mà không có lễ thì dễ làm loạn, tiểu nhân có dũng mà không có nghĩa thì sẽ làm giặc." Trong lúc ấy minh quân xuất hiện trong lịch sử rất hiếm. Phần đông các vua quan đều là loại người phi lễ nghĩa, phi nhân tính, phi nhân cách, nhân phẩm và nhân tâm nên "sự suy đồi hư hỏng thê thảm trong lịch sử con người" như Toynbee đã nhận xét.
Đối với nòi giống Việt, để sống còn và tiến hóa, con người đã phải phấn đấu triền miên với nạn đao kiếm của tất cả các triều đại của người phương Bắc. Những cuộc tranh hùng với Tần - Hán - Đường - Tống - Nguyên - Minh - Thanh đã vẽ lên toàn bộ lịch sử đau thương của đất Việt. Nền văn minh Việt vừa chớm nở đã bị vây hãm và đè bẹp bao ngàn năm qua mà chưa một lần có cơ hội phục hoạt, hồi sinh lại thì làn sóng Thực Dân và sau đó là Cộng Sản đã tìm mọi cách để hủy diệt trọn vẹn nền đạo lý cổ xưa của tổ tiên. Nước mất , nhà tan vì thế!
Vì thế những con người thời đại hôm nay không thể không học những bài học đau thương và nhục nhã trong suốt bao ngàn năm lịch sử bão bùng đó của nòi giống mình -- một nòi giống mà đặc tính là NHU - THUẬN của người phương Nam. Tự ngàn xưa khi Tử Lộ hỏi Khổng Tử về cái tính hùng cường của con người, Khổng Tử giảng giải: "loại người mặc áo giáp, lưng đeo cung, ngồi trên mình ngựa, coi cái chết tựa như lông hồng; đó là cái mạnh của người phương Bắc. Loại người còn lại, khoan hòa, uyển chuyển, nhân ái và nhu thuận; họ thường có lòng nhân từ bất báo kẻ vô đạo -- đó chính là cái mạnh của người phương Nam. Người quân tử thích cái mạnh đó. (khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo, Nam phương chi cường dã, quân tử chi ca) (Luận Ngữ, chương X)
Nhờ cái đặc tính nhu thuận đó mà dân tộc Việt còn sống còn đến ngày nay. Khốn thay! Khốn thay! Nếu nòi giống Việt từ bao ngàn năm không bị Hán hóa hay tiêu diệt cũng nhờ bản tính nhu thuận của mình - thì giờ đây cái tinh thần dân tộc cao quý ấy đã bị chính Hồ Chí Minh và đảng CSVN vây hãm, vùi dập và phá hủy tận gốc rễ để chúng dễ bề ngồi trên đầu trên cổ dân tộc để hiếp đáp và hành hạ suốt 70 năm qua.
ĐÓ LÀ CÁI TAI HẠI CỦA NHỮNG KẺ VÔ THẦN. Trong lúc bọn Tần Nho, Hán Nho, Minh Nho, Tống Nho và Thanh Nho có bạo ngược tham tàn, độc ác và bất nhân thật, nhưng vẫn chưa phải là những con người vô thần như Cộng Sản. CS là những kẻ mù lòa vì những tham vọng thấp hèn trước danh lợi ích kỷ cho riêng mình, riêng đảng của mình mà đang tâm hủy diệt tận gốc rễ gia sản tinh thần của nền văn minh Việt đã xây đắp từ hơn 4000 năm qua. Chính từ đó cái tinh thần "khoan nhu dĩ giáo, bất báo kẻ vô đạo" truyền thống của người dân Việt đã bị chôn vùi tiêu hủy bởi tính cách vô thần của CSVN.
Mục đích của duyệt xét lại lịch sử văn minh là làm sáng tỏ thứ chính trị hữu đạo và chính trị vô đạo trong suốt bao ngàn năm lịch sử. Cái lầm lạc tai hại nguy hiểm của con người là nhìn Tần Nho, Hán Nho, Minh Nho, Tống Nho và Thanh Nho mà cứ tưởng đó là con đường đạo lý chính trị của Nghiêu-Thuấn, Văn-Vũ, Chu Công và Khổng Tử nên đã lên tiếng chê bai, lăng nhục và khước từ chính giáo. Làm sao con người có thể đồng hóa giữa hình pháp và bạo lực của Tần Thủy Hoàng và tất cả các triều đại quân chủ chuyên chế của Trung Hoa với con đường vương đạo các tiên nho?
Ngày nay muốn xét xem đâu là chính đạo và đâu là tà đạo thì cứ nhìn quả biết cây: bởi
1. Nếu đường lối chính trị của một quốc gia theo con đường vương đạo thì chắc chắn dân sẽ hưởng được ngũ phúc: SỐNG THỌ, GIẦU CÓ, YÊN VUI, NHÂN ĐỨC, CHẾT GIÀ TRONG BÌNH AN.
2. Nếu đường lối chính trị quốc gia theo con đường bá đạo, tức chỉ dùng hình pháp và bạo lực thì chắc chắn dân sẽ chìm đắm trong lục cực: CHẾT NON, SỐNG BỆNH TẬT, LO ÂU TUYỆT VỌNG, NGHÈO KHÓ GIAN NAN, HAY GÂY TỘI ÁC, SỐNG YẾU ĐUỐI VẬT VỜ. (Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ)
Khi nhà Thanh đi vào suy thoái, Khang Hữu Vi, Đàm Tử Đồng và Lương Khải Siêu đã nhờ các giáo sĩ Kitô giáo đến truyền đạo tại Trung Hoa giúp cho họ hiểu được một phần về văn minh Tây Phương, nhưng vì thiếu sự hiểu biết sâu xa và những kiến thức về Tây Phương nên cuộc cách mạng Tân Hợi chỉ đưa ra những khái niệm lờ mờ về dân tộc, dân sinh và dân quyền. Mặc dù họ đã nỗ lực không ngừng để tìm kiếm một giá trị tổng hợp Đông - Tây, nhưng giá trị cốt lõi của Nguyên Nho không được làm sáng tỏ. Trong lúc các giá trị cột trụ của văn minh Tây Phương là TRIẾT HỌC, KHOA HỌC và THẦN HỌC THIÊN CHÚA GIÁO họ không nắm được, nên mục đích tổng hợp của họ đã thất bại. Bởi vì đạo lý cổ xưa đã tàn tạ, héo úa; còn cái mới chưa học xong. Sự bế tắc của lịch sử nằm ở đó.
NHỮNG THỬ THÁCH CỦA VĂN MINH TÂY PHƯƠNG
Nếu nền văn minh tinh thần của Tam Giáo tại Đông Phương đã chịu đựng thử thách khốc liệt hơn 2000 năm qua vì chủ trương cai trị con người là hình pháp và bạo lực của tất cả mọi triều đại từ nhà Tần đến nhà Thanh -- thì tại Tây Phương nền văn minh tinh thần của Kitô giáo cũng phải trải qua gần 2000 năm thử thách, không chỉ với các vương quyền từ thời Constantine (306-377) đến thời Philip IV của Pháp vào thế kỷ 13 và 14 mà tiếp theo đó là thời phục hưng, rồi thời kỳ cách mạng khoa học, thời đại ánh sáng và sau chót là các làn sóng cách mạng xã hội tại Pháp và cách mạng của phong trào Cộng Sản vô thần vào thế kỷ XX.
Như vậy ánh sáng của Cựu Ước và Tân Ước đã truyền vào Tây Phương từ 2000 năm và trải rộng khắp thế giới tối thiểu là 500 năm nay. Tuy nhiên đạo lý của Thiên Chúa lại quá chú trọng vào phần công truyền (Formalism) mà rất ít người chú ý tới phần TÂM TRUYỀN mà chính Chúa Jesus Kitô muốn đem đến cho tất cả nhân loại trong Tân Ước.
Vào thời đầu của Trung Cổ, cả Âu Châu bước vào thời đại của bóng tối (Dark Age) (476-1000). Người ta cho rằng con người phải sống vào thời đại của bóng tối; bởi vì họ đã đánh mất đi ánh sáng của văn minh Thượng Cổ Hy Lạp như triết lý khoa học, ngôn ngữ và luật pháp. Hy Lạp và La Mã đúng là chiếc nôi của văn minh Tây Phương, ở đó các triết gia và các nhà khoa học luôn luôn chú tâm tới việc khám phá những luật lệ thiên nhiên đang vận hành trong vũ trụ. Con người luôn luôn tin tưởng vào triết lý -- bởi vì triết lý có nghĩa là: TÌNH YÊU với KIẾN THỨC và MINH TRIẾT.
Đầu tiên các triết gia cố gắng để tìm hiểu xem thế giới đến từ đâu và cái gì làm ra thế giới đó. Ngày nay được gọi là sự tìm kiếm của khoa học. Người Hy Lạp dùng triết học và khoa học để tìm kiếm sự thật về con người. Socrates kêu gọi và khuyến khích con người xử dụng lý trí để tìm kiếm, học hỏi. CUỘC THẢO LUẬN TRƯỚC TIÊN CỦA TRIẾT HỌC LÀ THẢO LUẬN VỀ MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA NGƯỜI VÀ NGƯỜI; GIỮA NGƯỜI VÀ VŨ TRỤ THIÊN NHIÊN TRONG VŨ TRỤ. Socrates -- con người đáng kính của thành Athens, ông là người đầu tiên đi tìm minh triết và ý nghĩa cuộc đời. Ông tin tưởng rằng CÓ NHỮNG LUẬT LỆ TRONG VŨ TRỤ ĐỂ GIẢI THÍCH VŨ TRỤ, VÀ VÌ VŨ TRỤ CÓ NHỮNG ĐIỀU TỐT ĐẸP VÀ CÔNG LÝ. TỪ ĐÓ CON NGƯỜI SẼ BIẾT VỀ CHÍNH HỌ ĐỂ TẠO RA NHỮNG TIÊU CHUẨN HAY QUI LUẬT CHO CUỘC SỐNG CHO HỌ.
Phải thờ cúng các vị thần trong truyền thống Hy Lạp và chú tâm tới hạnh phúc chung của Đô Thị.
Sau Socrates, Plato đã khai sinh ra chế độ cộng hòa. Đó là con đường chính trị vương đạo như Đông Phương. Quốc gia phải đặt trên nền móng công lý và các công dân phải trung thành với quốc gia và quốc gia được cai trị bởi các vương quyền cũng là các triết gia.
Người Hy Lap tự tin rằng con người có khả năng để cai trị chính mình. Vì thế Đô Thị đã khuyến khích các công dân phát triển những tài năng của họ. Đô Thị không những cho công dân quyền chính trị mà còn tạo nhiều cơ hội để người dân được phát triển tất cả tiềm năng của họ.
ĐÔ THỊ ATHENS LÀ TRUNG TÂM VĂN HÓA CỦA THẾ GIỚI THƯỢNG CỔ VÀ LÀ CHIẾC NÔI CỦA VĂN MINH TÂY PHƯƠNG. Nền dân chủ tại Athens phát triển từ từ, bắt đầu từ 1200 đến 800 B.C.. Hy Lạp theo tôn giáo đa thần. Đứng đầu là thần mặt trời (Zeus), con gái của thần mặt trời là nữ thần của minh triết (Athena), người con gái kế tiếp là nữ thần của tình yêu (Aphrodite) và thần ánh sáng , âm nhạc và thi ca (Apollo). Như vậy ba cột trụ chính của văn hóa Hy Lạp MINH TRIẾT, TÌNH YÊU, và ÁNH SÁNG . Ngoài ra còn rất nhiều vị thần khác nữa. Tất cả đều sống trên núi Olympas tại Hy Lạp. Vì vậy TRIẾT LÝ HY LẠP LUÔN LUÔN MANG MÀU SẮC TÔN GIÁO. Tuy nhiên vào thời Phục Hưng (1350-1600) và thời Ánh Sáng vào thế kỷ 17 các triết gia Tây Phương phần đông đã bỏ quên luôn màu sắc tôn giáo trong truyền thống Đa Thần cua Hy Lạp để tôn sùng khoa học vật chất mà thôi. Đó là tất cả đặc tính của thời hiện đại (modern age) (1350-2007).
Ngày nay muốn hiểu tại sao nền văn minh tinh thần (spiritual civilization) của Âu Châu rơi vào cơn khủng hoảng từ hơn 600 năm qua, người ta phải duyệt xét lại những giai đoạn phát triển và thăng trầm của Kitô giáo. Trong đó GIÁO HỘI TIÊN KHỞI bắt đầu từ năm 42 A.D. do các thánh Phao Lồ (Paul) và thánh Phê Rô (Peter) truyền vào La Mã. Đây là giai đoạn tinh rồng nhất của đạo lý Kitô giáo, nhưng đã trải qua gần 300 năm bị bách hại từ mọi phía, nhất là các vương quyền La Mã đều cảm thấy giáo lý của Tân Ước rất nguy hiểm cho ngôi thiên tử của họ và nguy hiểm cho cả các vị thần linh của họ nữa. Càng bị bách hại thì máu tử đạo càng nhiều hào quang rực rỡ.
Từ triều đại của Constantine (303-377) của Tân La Mã, cả dân Âu Châu đã được Kitô hóa nên Giáo Hội được Constantine ban cho nhiều nhà đất và rất giàu có, nhưng thế quyền vẫn là tối thượng và tôn giáo bị kiểm soát chặt chẽ.
Tại các nước Đông Âu, các hoàng đế sau Constantine đã cai trị tôn giáo bằng những bàn tay sắt. Trong đó Caesar đã hành động như một vị giáo hoàng và xen trực tiếp vào những việc của Giáo Hội.
Trong lúc đó Giáo Hội luôn luôn tìm mọi cách để chống lại thế quyền và bảo vệ sự độc lập của Giáo Hội. Đến thời của giáo hoàng Leo I (440-461) thì quyền tài phán riêng tư của Giáo Hội đã đạt được. Vào cuối năm 455, giáo hoàng Galasius I (492-496) đòi hỏi QUYỀN NĂNG CỦA GIỚI TĂNG LỮ PHẢI TỐI THƯỢNG HƠN QUYỀN NĂNG CỦA CÁC VUA. Tuy nhiên vị trí độc lập của Giáo Hội luôn luôn bị đe dọa bởi tham vọng của các vương quyền. Vì thế đến thời giáo hoàng Gregory The Great (590-604) luôn luôn phải có những cuộc thương thuyết với hoàng đế Lombard để được độc lập.
Đứng trước bao áp lực mạnh mẽ của thế quyền, Giáo Hội còn bị rơi vào tình trạng chia rẽ thành Giáo Hội Tây Âu và Đông Âu. Giáo Hôi Tây Âu nói tiếng La Tinh và Giáo Hội Đông Âu thì nói tiếng Hy Lạp. Cả hai đều muốn độc lập với thế quyền nhưng cả hai đều thất bại.
Giáo Hội Tây Âu thường độc thân vì họ được khuyến khích theo văn hóa tu viện.
Giáo Hội Đông Âu cho phép tu sĩ lấy vợ, nhưng các giám mục thì tuyệt đối cấm. Giáo Hội Đông Âu chỉ tin vào Thánh Kinh và họ không tin vào các lời dậy của Roma.
Đến năm 754, đức giáo hoàng Stephen II (752-757) bắt đầu có nhiều hành động chống lại hoàng đế Lombard. Tại vương quốc Pháp, vào triều đại của Charlesmagne (768-814) đã dùng mọi nỗ lực để bảo vệ giáo hoàng và ông đã xâm lăng nước Ý và hoàng đế Lombard đã phải đầu hàng. Charlesmagne đã bắt dân Anh phải Kitô hóa một cách hết sức tàn bạo. Sau đó lan đến các quốc gia khác như Bỉ, Hòa Lan, Thụy Sĩ và Tây Ban Nha.
Vào chóp đỉnh của thời Trung Cổ (1000-1300), đây là giai đoạn phát triển toàn vẹn tiềm năng của văn minh Trung Cổ. Các chế độ quân chủ xuất hiện tại Pháp, Anh và Đức. Nghị viện là nơi hội họp để bàn về quyền hành và quyên lợi của tầng lớp quý tộc, tu sĩ và thứ dân.
Cho mãi đến thế kỷ 12 mới thực sự là thời phục hưng của các giá trị cổ xưa. GIÁO HỘI ĐỘC LẬP VỚI CÁC VƯƠNG QUYỀN ĐỂ MỞ ĐẦU CHO GIAI ĐOẠN TÁCH GIÁO HỘI RA KHỎI NHÀ NƯỚC (separation of church and state). Trong các cuộc phấn đấu liên tục giữa Giáo Hội và thế quyền đã làm nảy sinh tư tưởng cải cách tôn giáo sau những thời gian đen tối để chu toàn nhiệm vụ tinh thần (spiritual mission) của Giáo Hội.
Trong vương quốc Đức vào thời Ott (936-973) đến với Giáo Hội, các tổng giám mục và các bề trên (abbots) và biến họ thành những kẻ phục vụ trong guồng máy hành chánh. Năm 961, hoàng đế Ott đã gọi giáo hoàng John XII (955-964) để quì xuống cho giáo hoàng đội triều thiên lên đầu, nhưng Giáo Hội chỉ là lưỡi gươm của vương quyền. Ott kiểm soát chặt chẽ tôn giáo và tuyên bố rằng: "TỪ NAY KHÔNG CÓ GIÁO HOÀNG NÀO NHẬN CHỨC MÀ KHÔNG THỂ TRUNG THÀNH VỚI HOÀNG ĐẾ."
Tuy nhiên vào thời Henry IV (1056-1106) một vị giáo hoàng Stephen IX thuộc phe cải cách đã bắt đầu công khai tuyên bố: "GIÁO HOÀNG ĐĂNG QUANG MÀ KHÔNG CẦN HOÀNG GIA PHÊ CHUẨN NỮA." Vào thời giáo hoàng Nicolas II (1059-1061) đã thành lập Hội Đồng Hồng Y (the college of Cardinal) vào năm 1059" để khai sinh ra cơ cấu tuyển chọn giáo hoàng. Chỉ trước đó 13 năm, HOÀNG ĐẾ HENRY III ĐÃ TỰ Ý TRUẤT PHẾ BA GIÁO HOÀNG VÀ LẬP MỘT GIÁM MỤC ĐỨC CAI QUẢN GIÁO HỘI. ĐÓ LÀ ĐỨC GIÁO HOÀNG CLEMENT II (1046-1047).
Những thái độ kiêu căng như Henry III đã chấm dứt sau năm 1059 khi Hồng Y đoàn đã được thành lập và tuyên bố hoàn toàn độc lập với vua nước Ý và các vua ở ngoài.
Tuy nhiên đến thời Henry IV là người vẫn muốn nuôi dưỡng đặc tính thần quyền trong đế quốc của ông. GIÁO HỘI và GIÁO HOÀNG là những thành phần không thể tách khỏi vương quyền. Năm 1084, Henry IV thống trị tuyệt đối và lập nên một lực lượng chống giáo hoàng (anti-pope). Xử dụng giáo hoàng Clement III và buộc giáo hoàng của Giáo Hội là Gregory phải lưu đày biệt xứ.
Và vương quyền và thế quyền luôn luôn tương tranh với nhau khốc liệt. Những cuộc va chạm và tương tranh vẫn tiếp tục diễn ra vào thế kỷ thứ 13 và 14 giữa giáo hoàng Boniface VII và vua nước Pháp là Philip IV.
BỐI CẢNH LỊCH SỬ THỜI PHỤC HƯNG (1350-1600)
Thời Phục Hưng đã đem đến cho Âu Châu một tinh thần mới với những đặc tính như sau:
1 - Từ thời trung cổ bước sang thời Hiện Đại (Modern Age)
2 - Đề cao chủ nghĩa cá nhân và tự do cá nhân
3 - Đề cao quyền lợi và thú vui phàm tục
4 - Xóa bỏ Chủ - Nô
5 - Đòi hỏi tinh thần độc lập các quốc gia
6 - Không quan tâm tới kiếp sau khi chết
7 - Muốn tách khỏi đức tin Kitô giáo.
Mẫu người của thời Phục Hưng phát huy niềm tin vào chính họ. Cố gắng tìm kiếm sự hiểu biết và phiêu lưu để tìm đất mới. Con người muốn làm ra thật nhiều tiền để sống thoải mái và sa hoa. Họ cho rằng Giáo Hội chỉ chú ý tới đời sống tinh thần, ngược hẳn lại những khao khát trần thế. Giá trị của tiền của vật chất gia tăng và bành trướng khắp nơi làm cho ảnh hưởng của quân chủ phong kiến phai mờ dần. Thời Phục Hưng không phải xảy đến trong một đêm mà là ảnh hưởng và thành quả của sự lớn mạnh bắt đầu từ cuối thời Trung Cổ. Khi các giá trị vật chất gia tăng và trở nên quan trọng thì quyền kiểm soát đất đai của giai cấp phong kiến và quyền kiểm soát của Giáo Hội cũng mất dần từ đó. Bởi vì con người thời đại Phục Hưng chỉ chú trọng tới các cuộc truy hoan trần thế. Rốt cuộc chính giới tăng lữ cũng bị cuốn hút theo làn sóng vật chất này.
Thời kỳ Phục Hưng bắt đầu từ Ý rồi lấn dần ra khắp Âu Châu. Ông hoàng của thời Phục Hưng là Lozenro de Medici sẵn sàng hỗ trợ cho các học giả và từ đó chủ nghĩa nhân bản (Humanism) là lực lượng dẫn đầu cho thời Phục Hưng. Quan điểm của chủ nghĩa nhân bản đã tác động, ảnh hưởng và uốn nắn những suy tư của các nghệ sỉ, các nhà văn và các nhà khoa học. Từ đó con người hồi tưởng lại thời cổ đại Hy Lạp và La Mã đều có những lối sống như thế. Chủ nghĩa nhân bản đã nghiên cứu kỹ lưỡng các dòng văn chương và nghệ thuật của Hy Lạp và La Mã để tìm kiếm hứng khởi cho những sáng tạo của họ.
Đặc biệt hơn cả là tư tưởng chính trị của thời Phục Hưng đã gây nên những ảnh hưởng không sao tưởng tượng được. Tại thành Florence, một người Ý đã xuất hiện như một tư tưởng gia chính trị thiên tài. Đó là Machiavelli với tập sách thật mỏng của ông là Le Prince để dậy cho các ông hoàng Âu Châu đi nắm đầu thiên hạ suốt gần 700 năm qua trên toàn thế giới. Machiavelli được mô tả là tổ tiên của tất cả các nhà độc tài trên toàn thế giới.
Nếu tư tưởng pháp gia của Hàn Phi Tử, Lý Tự và Thương Ương đã giúp cho Tần Thủy Hoàng và tất cả các triều đại tại Trung Hoa làm tình làm tội các dân tộc Đông Phương thì Machiavelli đã dậy cho tất cả các nhà độc tài nắm đầu trên toàn thế giới. Cuốn Le Prince không chỉ đem đến cho các ông hoàng thời phục hưng có một kỹ thuật siêu việt để thâu tóm quyền lực và duy trì quyền lực, mà ảnh hưởng của nó đã tạo thành các lán sóng cách mạng thật đẫm máu. Chính làn sóng QTCS cũng từ chiếc nôi này mà bước ra đi gieo rắc đau thương cho tất cả nhân loại.
Machiavelli dậy các nhà độc tài rằng:
1 - Phải có sức mạnh. Muốn có sức mạnh thì phải biết độc ác và tàn bạo với con người.
2 - Đừng rụt rè e ngại khi phải lừa đảo, trí trá và gạt gẫm tất cả mọi người.
3 - Đừng coi luật pháp là gì cả! Bởi vì sức mạnh của bạo lực là luật rồi.
Vì thế Machiavelli được những con người còn biết tôn trong đạo lý và tình yêu của con người nói về Machiavelli như sau:
"Đây là ngôn sứ của bày quỉ dữ (A spoken man of Devil) và vị ngôn sứ ấy đã khơi đúng cái mạch sống tiềm ẩn nơi mặt trái tồi tệ nhất của con người trần thế. Tàn bạo, phũ phàng, độc ác, nham hiểm, trí trá, lọc lừa, phỉnh phờ, lường gạt tất cả mọi người miễn là nắm được và duy trì được quyền lợi chính trị."
Đó là tất cả lý do tại sao Toynbee nói rằng: "Những suy đồi hư hỏng thê thảm trong lịch sử con người." Tư tưởng này đã ảnh hưởng trực tiếp vào tất cả các cuộc cách mạng thuần túy bạo lực trên toàn thế giới.
NHỮNG BIẾN CỐ LỚN SAU THỜI PHỤC HƯNG (1450-1632)
1 - Đó là cuộc cách mạng khoa học.
Khởi đầu là của nhà thiên văn Copernicus, rồi Galileo, Newton, Kepler, Descarter và Bacon. Có thể gọi họ là những nhà thiên nhiên học (naturalists), hay các nhà khoa học tự nhiên hay các nhà vật lý và các nhà thiên văn .
Trên mức độ nghiên cứu thực nghiệm, vật lý được nhìn như thứ khoa học tự nhiên, và hầu như các nhóm khoa học đều thuộc về khoa học tự nhiên. Trong những trường hợp sau này ngành vật lý hay khoa học tự nhiên gồm có cả những lãnh vực như thiên văn, cơ học, nhãn khoa, thính thị và động cơ, nam châm, điện lực, và đôi khi có cả hóa học, sinh vật học và ngay cả tâm lý học cũng được coi là đứng dưới sự hướng dẫn của khoa vật lý, hoặc khoa học tự nhiên. Bởi vì sự liên hệ của vật lý với các ngành khoa học khác, hoặc các phần khác của triết lý, điều đó dẫn đến tư vấn chẳng hạn như -- hoặc giả vật lý là môn học siêu đẳng giữa các khoa học, nghiên cứu, học hỏi về tính chất thiên nhiên căn bản nơi các sự vật, hoặc vật lý là tất cả khoa học.
Các nhà khoa học cho rằng mục tiêu của các cuộc nghiên cứu về một thế giới linh động với mọi sự đang biến dịch chuyển hóa (motion). Trong bất cứ quan điểm của ai, nếu khoa học tra xét nghiên cứu những thực tế linh động; nếu không cố gắng nắm được những chuyển động của thực tế linh động đó hay chỉ nói tới một cách khái quát, nếu không bám sát để chăm chú tới hiện tượng về sự biến dịch chuyển hóa, thì sau đó không nắm được cái đặc tính của vật lý hay khoa học tự nhiên.
Những nhà vật lý lúc ban đầu ở Hy Lạp, thời tiền Socrates, đó là những người mà Plato và Aristostle đã đề cập đến -- họ đã bắt đầu nghiên cứu về sự chuyển dịch với những suy luận về nguồn gốc khởi nguyên, nằm bên ngoài, hay bên trên -- hoặc là khởi nguyên của các hiện tượng thiên nhiên.
Đến thời Newton, Ông có thể gọi những công trình của ông là triết lý thiên nhiên, ông cũng đưa đến cho nó một thứ triết lý có thí nghiệm. Trước kia chỉ có suy tư mà không có thí nghiệm. Newton tuyên bố: "Thiên nhiên trong sáng với sự đơn giản và những tầm ảnh hưởng xuất phát từ những nguyên nhân cũng thấy có sự rườm rà " vào cả trong phần mở đầu cuốn sách: "Mathematic Principle of Natural Philosophy) ông đã đặt xuống những nguyên tắc về triết lý, và cả toán học. Từ đó chúng ta có thể xây dựng những lý lẽ của chúng ta khi nghiên cứu về triết lý. Những nguyên tắc này là những luật lệ về sự chuyển dịch. Từ những nguyên tắc như thế Newton đã cố gắng chứng minh về một hệ thống của thế giới thiên nhiên.
Còn Bacon thì nhấn mạnh đến kiến thức thực tiễn đem đến cho chúng ta quyền lực để kiểm soát thiên nhiên và sau đó làm ra những sản phẩm. Bacon tách triết lý tự nhiên ra khỏi triết lý nhân sinh và triết lý xã hội và chia tiếp triết lý tự nhiên thành hai phần suy tư chính -- vật lý và siêu hình học và hai ngành thực hành chính là cơ học và ảo thuật.
Newton mở ống kính thiên văn với một câu nói: "sự thiết kế của tôi trong cuốn sách này không phải để giải thích về số lượng ánh sáng bởi một giả thuyết mà để đề nghị và chứng minh bằng lý trí. Như một nhà thí nghiệm, tôi cảm thấy gắn liền với thí nghiệm..."
Chính Galileo cũng đã liên kết giữa toán học và thí nghiệm trong những công trình nghiên cứu thế giới thiên nhiên của ông.
Descarter khi thảo luận về nghiên cứu thiên nhiên, ông đã hướng thẳng tới khuynh hướng thí nghiệm (experimentalism). Descarter tuyên bố: "những thí nghiệm trở thành quá cần thiết -- hơn nữa đó là một kiến thức tiến bộ. Khoa học được coi như là kiến thức đã được tìm thấy trong cuộc thí nghiệm, hoặc tối thiểu là trên những quan sát. Đó là điều thiếu sót của thời thượng cổ; họ không có thí nghiệm như thời hiện đại.
Bacon và Descarter dường như là những người đầu tiên nhận định rằng kiến thức là thí nghiệm tự nguồn gốc và phải đem nền tảng đó áp dụng vào kỹ thuật. Các phương tiện khoa học quá cần thiết, không kém gì máy móc và những phát minh khoa học ước mong sản xuất được. Khoa học thực nghiệm vì vậy là một sáng tạo và từ đó con người tạo ra kỹ thuật.
Vào thế kỷ 19, Augustine Comte sáng tạo nên một chủ thuyết, dưới tựa đề triết lý thực chứng (positive philosophy), đã công khai tuyên bố rằng chỉ có những khoa học thực chứng (positive science), nghiên cứu về những hiện tượng thiên nhiên tinh thần và xã hội bằng phương pháp thực nghiệm -- mới đáng gọi là "khoa học" trong ý nghĩa đáng ca ngợi của chữ khoa học. Ngược lại, triết lý chỉ thuần túy là suy diễn, và tôn giáo là thứ mê tín dị đoan.
QUAN ĐIỂM CỦA COMTE LÀM THÀNH MỘT THÁI ĐỘ PHỔ QUÁT CẢ THẾ GIỚI NGÀY NAY DƯỚI NHÃN HIỆU THỰC CHỨNG (positivism). Nhận ra khoa học với kiến thức rõ rệt như một sự kiện hiển nhiên phải giới hạn thứ kiến thức đó rồi dẫn đến những kết luận, sau đó kiểm chứng lại bằng cách thực nghiêm. Bất cứ cái gì không hợp với quan niệm về khoa học, thì một là toán học, hoặc là luận lý, giống như triết lý và tôn giáo -- đó chỉ là thứ đoán mò, ý kiến này nọ, hoặc tín ngưỡng riêng tư, chủ quan và quá vu vơ.
Tâm lý học được coi là ngành của triết lý, hay là nhà khoa học và tuyên bố tâm lý học là thứ khoa học thực chứng. Theo Freud cho biết, vì xã hội học là môn học lo về nhân cách của con người trong đời sống xã hội. Không có gì ngoài việc áp dụng tâm lý học vào xã hội học.
Trong cuốn "New Inductrory Lectures on Psycho-analysis" Freud cho rằng, điều cần nói là không có một nguồn gốc nào của kiến thức trong vũ trụ, mà chỉ có dẫn đường của trí thức với tất cả sự thận trọng trong việc kiểm chứng lại sự quan sát khách quan. Freud công khai tuyên bố: "Khoa học là ngành học của sinh hoạt trí thức về con người và rằng tôn giáo và triết lý chỉ có giá trị tối thiểu như một sự đe dọa tới sự thống trị của khoa học trên con người và xã hội: "CHỈ CÓ MỘT MÌNH TÔN GIÁO THỰC SỰ LÀ MỘT THỨ KẺ THÙ NGUY HIỂM." Tôn giáo và khoa học có thể được coi là tương xứng nếu tôn giáo đem đến cho những con người một điều gì đó đẹp đẽ mỹ miều hơn, thoải mái dễ chịu hơn, và cao thượng sáng giá hơn bất cứ thứ gì mà họ không bao giờ có được từ khoa học.
Nhưng tôn giáo không thể nói như thế, Freud nghĩ rằng, mà không mất đi "tất cả ảnh hưởng với đám đông của nhân loại."
"Chỉ có một mình khoa học mà thôi mới có thể đi tới với lời giải đáp cho thực tế." Đó là sự "giải đáp thỏa đáng với thế giới ngoại lai thực sự mà chúng tôi gọi là chân lý. Vì lẽ đó khi tôn giáo kêu nài rằng tôn giáo có thể đứng vào chỗ đứng của khoa học và rằng đó là một lợi ích cao thượng -- lời tuyên bố đó, trên thực tế chứng minh rằng, đó là môt vi phạm, từ đó vì quyền lợi của mọi người, điều đó phải được chống lại."
Sự thật tôn giáo có thể nói là: "ĐÂY LÀ MỘT SỰ KIỆN CÓ THẬT, ĐÓ LÀ TÔI KHÔNG THỂ ĐEM ĐẾN CHO CÁC ANH ĐIỀU MÀ ĐÁM ĐÔNG GỌI LÀ CHÂN LÝ; ĐỂ CÓ THỂ CÓ ĐƯỢC ĐIỀU ĐÓ CÁC ANH PHẢI TÌM ĐẾN VỚI KHOA HỌC". Both together would be outcast from human culture.
Đối với Freud, cả hai thứ đó (triết lý và tôn giáo) đều phải quăng ra khỏi văn hóa của con người. TRIẾT LÝ KHÔNG CÓ GÌ HƠN TÔN GIÁO, CẢ HAI PHẢI THAY THẾ BẰNG KHOA HỌC. Đó là cái gì mà Freud cho là hy vọng sáng sủa nhất cho tương lai: "TRÍ THỨC - VỚI TINH THẦN KHOA HỌC VÀ LÝ TRÍ - ĐÃ ĐẾN ĐÚNG THỜI ĐIỂM THIẾT LẬP NÊN MỘT NỀN ĐỘC TÀI TRÊN TRÍ TUỆ CỦA CON NGƯỜI ( intellect - the scientific spirit, reason - should in time establish a dictatorship over human mind ). (viết theo The Great Ideas, chapter 83)
2 - THỜI KỲ ÁNH SÁNG VÀ LÀN SÓNG CHỐNG KITÔ GIÁO
Tiếp theo cuộc cách mạng khoa học là thời kỳ Ánh Sáng. Các triết gia và giới văn chương vào đầu thế kỷ 18 đã bị cuốn hút vào những khám phá mới do các nhà khoa học đem đến cho con người tại Âu Châu. Với tất cả những nhiệt tình nóng bỏng, các triết gia và các học giả chóa mắt vì những hào quang của chân lý mới do các ngành thiên văn và khoa học tự nhiên đưa ra. Vì thế họ đã đặt ngay ra những mục tiêu như tấn công vào các chế độ cổ hũ (ancient regimes), tỏ ra hoài nghi và tấn công vào thành trì của Kitô giáo và Giáo hội. Họ quay qua tôn sùng chủ nghĩa nhân bản của Thời Phục Hưng. Đối với những con người thời đại, lợi ích và thú vui trần thế phải được đề cao và khuyến khích. Họ tự thấy con người nay đã trưởng thành nên không còn tin vào Thiên Chúa và thần thánh nữa.
Các triết gia và các học giả, thi sĩ, nhạc sĩ, văn sĩ, họa sĩ trong nhóm Bách Khoa tại Paris là trái tim của thời kỳ Ánh Sáng. Những nhà cải cách chính trị từ Ediburgh đến Naples, từ Paris đến Berlin, từ Boston đến Philadelphia đều liên kết lại với nhau để đăng đàn diễn thuyết về chủ nghĩa nhân bản, chủ nghỉa thế tục (secularism) và cá nhân chủ nghĩa. Họ cổ súy tự do với nhiều hình thức của nó, tự do thoát khỏi quyền năng độc đoán, tự do ngôn luận, tự do kinh tế thương mại, tự do phát triển tài năng, tự do sáng tạo cái chân - thiện - mỹ.
Những nhóm người khác thì tham gia vào các khuynh hướng vô thần (atheism) và tôn thờ vật chất thế gian (materialism). Bên cạnh đó là những tự tưởng gia chính trị, xã hội đã tìm mọi cách để đề cao và phát huy những tư tưởng dân chủ. Người ta đề cao nhất là chủ nghĩa nhân bản phàm tục (secular humanism) để ồn ào chống lại mục tiêu cao cả của tôn giáo. Những con người thời đại Ánh Sáng là nhóm người ồn ào náo nhiệt nhất. Họ soạn thảo ra một chiến lược chính trị bằng cách tạo ra sự hận thù ngùn ngụt với Giáo Hội và nhà nước, và dồn mọi nỗ lực tranh đấu để dành ưu thế.
Họ biến Paris trở thành tổng hành dinh và là trung tâm của trí thức Âu Châu, và các triết gia của các quốc gia khác tuyên bố họ là môn đồ của các cây viết Pháp. Bởi vì Paris chính là Athens của thời hiện đại, MỘT THỦ ĐÔ ĐỂ DẬY DỖ VÀ NHÀO NẶN ÂU CHÂU .
Vào đầu năm 1706, Lord Shaftesbury đã viết cho Jean Le Clere: "ĐÃ CÓ MỘT ÁNH SÁNG ĐẦY QUYỀN NĂNG ĐANG CHIẾU RỌI KHẮP THẾ GIỚI." Những con người làm nên ánh sáng đó gồm có Voltaire, Rousseau, Diderot, Wieland, hoặc David Hume,...
Chủ nghĩa thực nghiệm của Anh (Bacon, Newton, và Locke) đã chuyển đổi thành chủ nghĩa duy lý (rationalism). MỤC TIÊU CỦA HỌ LÀ ĐỀ CAO KHOA HỌC, TRUYỀN BÁ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ ĐỂ THAY ĐỔI CHUYỂN HÓA CẢ ÂU CHÂU. Họ cho rằng triết gia là công dân của thế giới, họ đã được huấn luyện để tin tưởng như thế. Giống như Stoic cổ xưa, ông đề cao quyền lợi của nhân loại lên trên quyền lợi của gia tộc và quốc gia. Họ đều như Diderot, tự cho họ là công dân của đô thị vĩ đại trên thế giới.
Rousseau thì cho ông là một nhà ái quốc. Riêng Wieland thì cho rằng, để có một lý tưởng cao thượng, chỉ có con người của thế giới mới có thể là một công dân tốt. Và chỉ có họ mới xứng đáng được gọi: "NHỮNG CON NGƯỜI ĐÃ LỚN DẬY, SOI SÁNG VÀ TẠO DỰNG NHỮNG NGƯỜI CAO THƯỢNG KHẢ KÍNH CHO TẤT CẢ NHÂN LOẠI .
Triết gia là một mẫu mực điển hình đã được nuôi trồng và uốn nắn để thành các học giả khả kính và các nhà khoa học amateurs. Bên cạnh họ còn một đám trí thức hàn lâm như Kant, Lichteaburg, Adam Smith, hoặc những con người của văn chương như Diderot, Lessing và Galiani, đó là những người có học thức lớn lao của các giáo sư đại học.
Franklin, D' Alembert, Maupertuis, Lichteuburg và Bufton khởi đầu là những khoa học gia trước khi được coi là triết gia. Những người khác như Voltaire, người đã nắm lấy chính nghĩa văn minh khoa học.Với tài năng, ông đã làm cho những khám phá của Newton trở nên nổi tiếng lừng lẫy. Họ cư ngụ tại các đô thị nổi tiếng, Franklin ở Philadelphia, Rousseau ở Geneve, Beccaria ở Milan, Dederot ở Paris hoặc Gibbon của Roma.
THỜI ĐẠI ÁNH SÁNG ĐƯỢC COI NHỮNG HOẠT ĐỘNG SAU CÙNG CỦA THỜI PHỤC HƯNG. Thời đại Ánh Sáng có sự hợp tác liên tục của ba thế hệ, kéo dài khoảng 100 năm tức là suốt thế kỷ 18. Với thế hệ đầu tiên được thống trị bởi Montesquieu, sau đó là đến Voltaire; họ đã lớn dậy khi các tác phẩm của John Locke và Newton còn quá mới mẻ và vẫn còn nhiều tranh cãi, và phần lớn đã hoàn thành trước 1750. Thế hệ thứ hai đạt đến sự chín chắn trưởng thành vào giữa thế kỷ 18. Franklin sinh ra vào 1706, Buffalo 1707, Hume 1711, Helvetius vào 1715, và D' Alembert vào 1717. Tất cả những cây viết này đã làm bùng nổ, chuyển ánh lửa cho khuyng hướng chống giáo sĩ và những suy tư khoa học của thế hệ đầu. Thế hệ thứ ba, thế hệ của Thomas Hobbes và Beccaria, của Lesing, của Jefferson, của Wieland, Kant và Turgot. Khuynh hướng và trào lưu này đã chuyển từ sự bí mật của khoa học, siêu hình học, vật lý, kinh tế, chính trị, cải cách pháp lý, và thực hành chính trị.
SỰ HIẾN DÂNG CHO KHOA HỌC VÀ THÁI ĐỘ THÙ HẰN VỚI TÔN GIÁO LÀ ĐẶC TÍNH CỦA THỜI ĐẠI ÁNH SÁNG. David Hume nhìn Giáo Hội bằng cặp mắt khinh bỉ: "ĐÓ LÀ VƯƠNG QUỐC CỦA SỰ NGU XUẨN VÀ VƯƠNG QUỐC CỦA SỰ VÔ MINH." Theo Peter Gay, một trong những sự kiện xã hội nổi bật nhất vào thế kỷ 18, là một món quà vô giá do xu hướng ánh sáng đem đến cho các triết gia thời đại -- ĐÓ LÀ CUỘC XÂM LĂNG VŨ BÃO CỦA CÁC TRIẾT GIA VÔ THẦN VÀO THÀNH TRÌ THẦN HỌC CỦA KITÔ GIÁO. Những linh mục dòng tên đã chia sẻ những khám phá mới bằng cách lắng nghe các tư tưởng của các nhà khoa học. Những người Cơ Đốc giáo thì ném cái nhìn nghi hoặc về nền tảng đức tin về phép lạ, và bằng một thứ thần học hiện đại. Các giáo sĩ đứng lên khắp nơi để chống lại các triết gia.
SỰ BỘI PHẢN NÀY CỦA GIỚI TU SĨ ĐÃ THẤM NHUẦN QUAN ĐIỂM THẾ TỤC ĐỂ CHẠY THEO THỜI ĐẠI CHỐNG LẠI ĐỨC TIN. Các triết gia đồng thời khám phá ra rằng bạn bè của họ bị ảnh hưởng lôi kéo rất đông. Một ông vua đã nỗ lực truất bỏ đặc quyền tài chánh cho giới tu sĩ; một bá tước bị trục xuất khỏi dòng tên, một nhà kiểm duyệt trố mắt tán trợ khuynh hướng tôn thờ vật chất.
Từ những phát minh của cách mạng khoa học, tâm lý học, kinh tế học, các tư tưởng xã hội, giáo dục và chính trị. Chính những người Kitô giáo xưa kia đã từng sùng đạo đã tán trợ tiếp tay cho tình trạng nguy hiểm này của thời đại Ánh Sáng. Đó là những khuôn mặt như Haller, Euler, Harly và Priestly. Khắp nơi như các trường học, các nhà thương, đã hỗ trợ làn sóng mới để hỗ trợ cho chính nghĩa "nhân đạo" của thời đại, tất cả cùng đứng lên chống lại tôn giáo mà họ cho là mê tín dị đoan để ồn ào tuyên dương thời đại.
Các triết gia và tư tưởng gia vô thần tấn kích hung hãn vào những dòng thi ca hữu thần của Dante. Họ lên án các cơ cấu phong kiến, rồi dẫn đến sự từ khước các học giả và các nhà siêu hình học là gia sản quý báu nhất của nhóm trí thức vô thần của thế kỷ 18. Thời đại đã tạo ra một lực lượng vô cùng hùng hậu không còn niềm tin tôn giáo, và vô thần, kéo theo họ số đông nhẹ dạ lũ lượt chạy theo sau.
Tất cả các nơi đều có chững nhà cải cách trong thời đại của Ánh Sáng. Lãnh tụ của Scottish là David Hume, Adam Smith, Adam Ferguson, William Roberton, và Lord Home, họ là những nhà kinh tế, chính trị, các nhà mỹ học, các sử gia, các triết gia và tất cả triết lý đã được thảo luận liên tục ngày đêm tại các thư viện, các hội quán, các tiệm cafe. Khi các nơi đó đã đóng cửa thì họ kéo nhau vào quán rượu. Các cuộc tranh cãi kéo dài bất tận trong nội bộ của các thành phần triết gia - CUỐI CÙNG LÀ PHE DUY VẬT VÔ THẦN ĐÃ TOÀN THẮNG.
Lằn ranh của các trận tấn công đã được vẽ xuống một sự phân chia rõ rệt giữa một thế giới hoàn phàm tục mà các triết gia muốn xây dựng và thế giới còn lại là tôn giáo, một thế giới mà con người không thể nào thỏa hiệp được. Các triết gia bám chặt vào nền văn minh bái vật của họ (Idolatrous civilization) (chữ của Peter Gay). Duyệt xét lại lịch sử của thời đại Ánh Sáng, tác giả cuốn "The Enlightenment" cho rằng: "HÀNH ĐỘNG QUÁ ĐÁNG BIẾN HỌ THÀNH NHỮNG NGƯỜI TRÍ THỨC BẤT LƯƠNG" (intellectual dishonest).
Thật quá rõ ràng các triết gia đã dấn bước lầm lạc trước trào lưu và những hậu quả tai hại do các luồng tư tưởng của họ đưa ra. Voltaire đã đọc khế ước xã hội của Rousseau và Diderot đã đọc Emile của Rousseau. Tại đây là HAI NGƯỜI THÔNG MINH NHẤT CỦA THẾ KỶ đối mặt nhau với hai tác phẩm có tính cách tiên tri, đó là những cuốn sách đã được tung ra khắp thế giới và các tư tưởng của các triết gia đã được đón nhận, từ đó đưa họ đến chỗ tự nhận đây "cuộc cách mạng trí thức (intellectual revolution), đưa thời kỳ Ánh Sáng đến thời điểm là XÓA BỎ ĐẲNG CẤP CŨNG NHƯ XÓA BỎ LUÔN THIÊN CHÚA."
Những con người sống trong thời đại tự do, các triết gia rất yêu thích tìm kiếm các giá trị thượng cổ. Họ như các nhà cải cách, họ không ngần ngại khai thác những giá trị cổ xưa mà họ yêu thích - các triết gia chia quá khứ thành hai phần; một phần họ rất thích và phần còn lại là Kitô giáo thì họ rất thù ghét. HỌ TUYÊN BỐ RẰNG HỌ CÓ NHIỆM VỤ ĐỂ XÓA TAN ĐI SỰ HẸP HÒI VÀ MÊ TÍN DỊ ĐOAN, ĐÓ LÀ NHIỆM VỤ LỊCH SỬ CỦA HỌ. HỌ NHÌN VÀO CÁC TÀI LIỆU LỊCH SỬ CỦA KITÔ GIÁO VÀ CHO RẰNG THỜI ĐẠI CỦA HỌ, CẦN CÓ SỰ SỬA SAI, BỞI VÌ TÔN GIÁO QUÁ KHÍCH. Họ tâng bốc hết lời Newton và các nhà phát minh ra khoa học.
Các triết gia tự cho họ cái quyền để tiếp nối các cuộc tranh đấu trong lịch sử giữa lý trí và phi lý trí. Trận chiến đã mất trong quá khứ và ngày nay cần tiếp nối để đưa đến sự thành công. Những viết lách lịch sử không chỉ đưa đến sự phản bác, mà dậy con người sự hiểu biết. Họ cho rằng HỌ MỚI LÀ LỊCH SỬ CHÂN CHÍNH. Với những đam mê lịch sử, nhưng họ nhìn quá khứ quá tồi tệ. LỊCH SỬ GHI LẠI CHỈ LÀ TỘI ÁC VÀ GIAN TRÁ. DIDEROT GỌI TÔN GIÁO LÀ NHỮNG KẺ ĐỘC TÀI MÊ TÍN (supertition tyrants). David Hume trong cái nhìn tổng quát, BỌN MAN RỢ VÀ TÔN GIÁO ĐÃ THỐNG TRỊ QUÁ KHỨ.
Thời đại của Ánh Sáng đã nhìn thấy một thế giới luôn luôn đưa ra giữa những kẻ quên mình, và những kẻ thù mê tín bằng xương bằng thịt, và những con người đã quyết đoán trong cuộc sống, với một hệ thống kiến thức và tấm lòng bao dung, giữa những người tạo ra sự thần bí âm u và những con người thực tế, thực tiễn, và giữa giáo sĩ và triết gia.
Peter Gay đưa ra nhận xét: sự xung đột này giữa những cách sống không thể hòa hợp, hòa giải với nhau được về quan niệm cuộc sống, về tư tưởng và lối cảm nhận. Mỗi thời đại có lối thống trị khác nhau, hoặc lý trí, hay mê tín dị đoan, nhưng các triết gia nhấn mạnh rằng sự thống trị này thực ra chỉ tạm thời, Có những chu kỳ có sự pha trộn giữa lý trí và mê tín và làm cho bóng tối vây phủ. Trong những thời đại cuồng loạn nhất có các triết gia thời đại, đó là những thời đại rực rỡ của lý trí và sự tự do nhưng rồi bị nhiễm độc bởi sự vương vất của sự già cỗi tàn tạ, hoặc là những hạt mầm của mê tín dị đoan. Vì thế Voltaire mới nói: "THỜI ĐẠI CỦA ÔNG LÀ THỜI ĐẠI CỦA CÁC TRIẾT LÝ," và cũng là "THỜI ĐẠI CỦA MÊ TÍN DỊ ĐOAN" của thế kỷ 18.
Kant cho rằng đây là SỰ XUNG ĐỘT GIỮA TƯ TƯỞNG CỦA HY LẠP VÀ LA MÃ và LÀ NGUỒN GỐC CỦA THẢM HỌA VÀ TIẾN BỘ. Quan niệm lịch sử của thời Ánh Sáng được mô tả như một cuộc chiến đấu liên tục giữa hai đối cực tinh thần. Các triết gia đã chia quá khứ thành bốn chu kỳ lớn gồm có những dòng văn minh CẬN ĐÔNG, CỔ ĐẠI HY LẠP, VÀ ROMA, VÀ HAI NGÀN NĂM KITÔ GIÁO. Bốn chu kỳ này đều có liên quan với nhau. Thời đầu tiên và thời thứ ba là những thời đại của thần bí của tín ngưỡng và của mê tín dị đoan, Trong lúc thời kỳ thứ hai và thứ tư là những thời đại của lý trí, khoa học và ánh sáng.
Họ cũng kêu gọi chú tâm tới sự phát triển trí tuệ của các nền văn minh Đông Phương với các nhà hiền triết Đông Phương (Oriental Sagacity) như Ấn Độ và Trung Hoa. Các triết gia viết về sự phát triển trí tuệ của con người, đó là sự chỗi dậy từ huyền thoại khi tìm về với thế giới thượng cổ mà con người đang sống với tất cả thảm họa dưới sự suy tàn bại vong của Kitô giáo, và chờ ngày vinh quang của sự tái sinh .
Hume đã viết, "ÂU CHÂU LẠI RƠI VÀO THỜI KỲ MAN RỢ NHƯ THỦA BAN ĐẦU, NHƯNG CON NGƯỜI ÂU CHÂU NGÀY NAY QUÁ SÁNG SUỐT, HỌ ĐÃ TỪNG SỐNG NHIỀU THẾ KỶ QUA TRONG VÒNG SỰ NGU DỐT TĂM TỐI QUÁ LÂU." D' Alemberg thì có giọng "văn chương tái tạo" xuất hiện tự trong lòng của sự ngu dốt, sáng tạo nên những tư tưởng mới trở về với tý trí với những hương vị tuyệt vời, "phục hoạt lại những giá trị tinh thần" và làm cho cuộc đời bừng dậy một ánh sáng -- tất cả đang chờ đợi cái giây phút khi một ánh sáng mới sẽ được khơi dậy để làm cho thế giới này sống lại trong một nền văn minh của tự do.
Nhưng Hegel đã viết ra một số trang rất chín chắn trong cuốn Phenomenology của ông, ông phê phán các triết gia: "CHỈ THẤY XUẤT HIỆN TRÊN BỀ MẶT MỘT HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG ĐỂ TỪ ĐÓ BƯỚC VÀO NHỮNG XUNG ĐỘT VỚI TÍN NGƯỠNG." Thời đại Ánh Sáng đã cư xử đối đãi với tôn giáo như một thứ mê tín tối tăm và lầm lạc trong việc tổ chức. SỰ THỜ LẠY CỦA DÂN ĐƯỢC CHỌN VÀ CHỈ BIẾT NHẮM VÀO SỰ PHỤC TÙNG CÁC THÁNH NHÂN. Những điều như thế chỉ có thể VƯỢT QUA BẰNG BẠO LỰC. Peter Gay đã ghi nhận rằng, CÁC HỌC GIẢ CÓ THỂ NHÌN NGÀN NĂM CỦA KITÔ GIÁO MỘT CÁCH CÔNG BÌNH CHỈ KHI NÀO NHỮNG CON NGƯỜI CHÊ BAI CHỈ TRÍCH ĐÃ GIẢI THOÁT ĐƯỢC CHÍNH HỌ TỪ CÁI NHÌN NHIỀU THIÊN KIẾN BẤT CÔNG CỦA HỌ.
Peter Gay còn khám phá thấy, các triết gia thời đại đã vượt cả lịch sử biên niên, tra cứu không ngừng các tài liệu thiêng liêng, và đã áp đặt tính cách duy lý trí trên đó, với những phương pháp khi nghiên cứu về xã hội chính trị, và những phát triển trí thức; điều rất nghịch lý là ngay các sử gia thời đại Ánh Sáng, các nhà duy lý trí sống với cảm tính rất nhiều, bám chặt vào mục tiêu của họ, rất cẩu thả về những chi tiết, hấp tấp phê phán gán ghép một cách bất công một tính chất nào đó, thiếu hẳn sự cảm thông, mất hết lý trí, đầy óc bè phái, tồi tệ xấu xa khi đi khám phá các giá trị của lịch sử.
Bởi vì tất cả những phán xét sai lầm và với tất cả thành kiến. Điều đòi hỏi ở nơi họ - khi họ đã bước qua những bước đầu, là giá trị gì để làm nền tảng và mẫu mực khi họ muốn nghiên cứu về lịch sử một cách khoa học. TẤT CẢ ĐỀU ĐI QUÁ ĐÀ VÌ THIẾU PHƯƠNG PHÁP VÀ QUAN NIỆM CHÍN CHẮN KHI PHÊ BÌNH, CHỈ TRÍCH VÀ NGHIÊN CỨU.
Ý NGHĨA VÀ TINH THẦN
Những con người tạo ra thời kỳ Ánh Sáng vượt lên trên tất cả người khác trong thời đại của họ. Những dòng văn chương cổ xưa vào thời Ánh Sáng do tầng lớp trí thức mới có được. Những nghiên cứu học hỏi của họ vào thời xa xưa mang nhiều đặc tính chính trị. Samuel đã nói về những dòng văn chương của nền cộng hòa cổ xưa như một chứng minh cụ thể về một cộng đồng của trí tuệ Với những trích dẫn của thời cổ xưa, ông nói, "đó là vai trò của người trí thức trên khắp thế giới."
Voltaire nhấn mạnh trong cuốn sách viết về nước Anh với những thành viên trong nghị viện, đã thích thú so sánh với chính họ như những người CỘNG HÒA CỦA LA MÃ. D' Argenson cho rằng: "những người Anh đã cho rằng họ đã nắm được cấu trúc của chính quyền La Mã với tất cả những gì tốt đẹp nhất và đã điều chỉnh lại những lỗi lầm" , nhưng theo Peter Gay, họ đã bỏ mất quan niệm của Stoic về sự hòa đồng hợp nhất của thế giới. Và vì không có niềm tin tôn giáo nên đã loại thần học Kitô giáo ra khỏi tín ngưỡng của họ. Vì thế Voltaire mới riễu cợt Cơ Đốc Giáo: "tư tưởng lạ lùng quá, phải cho vào một nồi nước để rửa sạch mọi tội lỗi - phải tẩy rửa như giặt quần áo vậy."
Các triết gia đọc Socrates, Plato, Zeno và muốn vượt qua tất cả, Trong lúc họ muốn tổng hợp minh triết và văn minh của Hy Lạp. Họ kêu gọi tìm về với thượng cổ để tìm kiếm khuôn vàng thước ngọc. Họ tôn thờ mẫu người thủa xưa khi nhìn vào đời sống của Caesar, Brutus, Pelopidas và Crato như những mẫu mực của La Mã, Diderot cho Socrates và Seneca là lương tâm của đám đông, Holbach khi viết về Seneca đã không hề chú ý tới đạo đức của Seneca. Riêng người tuổi trẻ Holbach đã nói với bạn ông. "tôi đi săn, đi câu cá, đi bắn, tôi bước đi suốt ngày mà vẫn không quên chuyện trò, đối thoại với Horace, Vergil, Homer và tất cả các bạn bè cao thượng họ". Cuối đời Holbach đi tuyên truyền cho chủ nghĩa vô thần và duy vật.
SỰ TÌM KIẾM VỀ NGOẠI GIÁO
Đối với phần lớn các triết gia, sự khám phá các giá trị của tổ tiên không khó khăn gì. Họ có những câu hỏi đầy xao xuyến về con người hiện sinh (existentialists).
"Tại sao mọi sự lại hiện hữu?"
Kinh nghiệm biện chứng của họ - dính liền với niềm tôn kính thủa xưa, và thù ghét Kitô giáo. Và sự xuất đầu lộ diện của thời hiện đại được định nghĩa về cơn khủng hoảng lớn lao về căn tính của con người. Sau chót phần lớn các cuộc tấn công dữ dội của họ được rêu rao trong thời đại Ánh Sáng đã được điều hướng để chống lại Kitô giáo; chống Kitô giáo trong tất cả mọi phương diện, chống lại các cơ cấu tôn giáo, đạo đức Kitô giáo, và chống cả quan điểm của Kitô giáo về con người, nhưng chính các triết gia đã từng sinh ra từ thế giới Kitô giáo và vẫn giữ mối liên lạc với các bạn bè Kitô giáo. Đó là điều không thể tránh những xung đột họ muốn tạo ra những điều mới mẻ.
Peter Gay cho rằng gia sản Kitô giáo nhiều khi vẫn lá sức nặng đè trên đời sống của họ, Kitô giáo đã bao trùm thống ngự cả tuổi thơ của họ, những dậy dỗ uốn nắn của Kitô giáo nhiều năm đã thành những ấn dấu, được củng cố với những lời cảnh báo và những hứa hẹn. KITÔ GIÁO KHÔNG NẮM GIỮ ĐƯỢC TÀI NĂNG TRÍ THỨC CỦA HỌ nhưng vẫn thường xuyên ám ảnh họ. Khi họ quay ra để chống tôn giáo họ đã làm như vậy không phải vì sự ngu dốt.
Herman Samuel Reimarus đã từng cảm thấy đau đớn bởi KHÔNG THỂ NÀO HÒA GIẢI ĐƯỢC SỰ MÂU THUẪN GIỮA NHỮNG LẬP LUẬN CỦA LÝ TRÍ VÀ NHỮNG ĐÒI HỎI CỦA ĐỨC TIN.
Nếu Thiên Chúa muốn dậy nhân loại qua cuốn Thánh Kinh, tại sao Thiên Chúa lại làm cho nó tăm tối như thế?
Nếu thực sự Thiên Chúa là Một trong Ba Ngôi, làm sao có thể thế được; Reimarus không bao giờ tưởng tượng được Ba Ngôi trong một hình ảnh gắn liền với nhau.
Nếu tất cả những ai bị trừng phạt, bị trừng phạt muôn đời, tại sao Kitô giáo lại đòi hỏi sự dâng hiến để nghĩ về họ như Thiên Chúa của tình yêu, và Chúa Jesus là người mang đến sự chuộc tội?
Làm sao Thiên Chúa có thể chọn dân Do Thái đứng trên các quốc gia khác, khi họ chẳng xứng đáng, quá bướng bỉnh với tội lỗi của họ.
Diderot, một tinh thần phát minh nhất, đã đi từ vị trí này qua vị trí khác và nỗi nghi ngờ lúc nào cũng quấy nhiễu ông. Ông sinh từ một gia đình đã cung cấp cho Giáo Hội nhiều tu sĩ, cha mẹ là người sùng đạo, cùng với các anh em sùng tín. Khi ông chấp nhận cái đẹp của vô thần, rồi thần luận Hy Lạp, bước qua chủ nghĩa hoài nghi, và cuối cùng dừng bước với cá nhân chủ nghĩa vô thần (individualistic a theism).
David Hume thì nói: "khi tôi quay cái nhìn vào bên trong tôi (tức thế giới nội tâm), tôi chẳng thấy gì cả và chỉ thấy hoài nghi và tăm tối.
BƯỚC ĐẦU TIÊN CỦA ÁNH SÁNG
Đối với các triết gia, thời cổ đại Hy Lạo, theo họ là những con người đầu tiên đã giải phóng con người thoát khỏi sự độc đoán của huyền thoại, và được thở ra nhẹ nhàng với bầu không khí của lý trí, để cạnh tranh với toán học của Babylon và thần học Do Thái. Vào thế kỷ 18, khi các triết gia đã hoàn tất xong chủ đề lịch sử, họ đã tuyên bố với sự liên hệ ruột thịt với thế giới cổ đại đó, họ đã đạt được sự tiến bộ và chống lại thật sâu xa với tinh thần Kitô giáo. Sự đề cao tâng bốc về Hy Lạp đã đi ngược lại với truyền thống Kitô giáo.
Từ đó đã chuyển đổi sự chú tâm của con người từ Do Thái qua tới Hy Lạp. Họ đã làm cho những người Hy Lạp bước đến vị trí thành cha đẻ ra một nền văn minh chân chính và là tổ phụ của thời đại Ánh Sáng. Từ đó đã làm lộn nhào nền móng lịch sử do Kitô giáo để lại bằng cách nhìn con người trong quá khứ như một con người phàm tục, không có gì thiêng liêng. Bước khởi nguyên của Hy Lạp có nghĩa là bắt đầu của triết lý, và triết lý đó đã làm cho tôn giáo thành vô nghĩa, vì triết lý biết ưu tư về con người.
Diderot đã hết lời tán tụng tâng bốc Thales như là người sáng tạo ra phương pháp khoa học trong triết lý. Những người kế tiếp Thales đã mở rộng phạm vi tìm kiếm với tất cả ưu tư về con người. Và những dòng suy tư đó được gom góp lại thành một kiến thức lớn lao. Đó là những con người đã đem đến để cống hiến văn minh cho nhân loại với bao sự biết ơn của hậu thế.
Hy Lạp là nơi đầu tiên đến với môn học là luận lý và những quan niệm trần tục để chỉ trích lịch sử, và những tâm tư bấn loạn đã dẫn đến việc xử dụng lý trí để nghiên cứu về con người thiên nhiên. Các triết gia Hy Lạp rút luân lý đạo đức trừ giá trị căn bản nơi con người hơn là từ Thiên Chúa. Hume thì cho rằng đó là "sự chỗi dậy của khoa học Hy Lạp." Với Abbe Y Von thì đã giải thích trong bách khoa là những người Hy Lạp đã phát minh ra triết lý và triết lý thách đố với tất cả mọi loại quyền hành, và tìm kiếm chân lý.
(còn tiếp...)
http://www.tiengnoigiaodan.net/anews/0805_127.html
(Bài số I)
http://www.tiengnoigiaodan.net/anews/0805_127.html
(Bài số II)
http://www.tiengnoigiaodan.net/anews/0806_067.html
(Bài số III)
http://www.tiengnoigiaodan.net/anews/0807_020.html
GIÁO HỘI TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA VÀ THÂN PHẬN CON NGƯỜI TRONG CÁC CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI (Bài số IV)
http://www.tiengnoigiaodan.net/anews08/0808_241.html
Giáo Hội và chính trị - NGUYỄN CHÍNH KẾT
Nguyễn Anh Tuấn (Political Scientist)/ Đại diện nhóm Vận Động Hòa Đồng Tôn Giáo và Dân Tộc
QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ
Roland Stromberg nhìn Arnold Toynbee (1889-1975) như "một tiên tri về sự hòa đồng hợp nhất của tất cả nhân loại". Toynbee là một sử gia người Anh. Ông chuyên nghiên cứu về văn minh và tôn giáo. Ông cho rằng nghiên cứu lịch sử chính xác nhất là nắm được mối tương quan liên hệ đến sự học nơi các nền văn minh bằng cách đáp ứng lại những kinh nghiệm thử thách bằng một tâm hồn sáng tạo. Toynbee đặc biệt nghiên cứu về "sự suy đồi, hư hỏng thê thảm của lịch sử con người" (a terrible perversion of human history).
Nếu những ai từng quan tâm đến sự sống và sự chết của chững con người, những người đó không thể không quan tâm đến lịch sử. Lịch sử của một quốc gia thường gắn liền với lịch sử với các quốc gia lân bang, hay gắn liền với cả thế giới. Đó là trường hợp của Việt Nam -- một cửa ngõ giao thoa giữa các nền văn minh, văn hóa và tôn giáo của cả Đông Phương vả Tây Phương. Bên cạnh những luồng ánh sáng văn minh chói lòa của Lão - Phật - Khổng, cũng như văn minh của Cựu Ước và Tân Ước sau này -- chính là những "suy đồi, hư hỏng thê thảm của lịch sử nhân loại", tất cả đều đổ vào Việt Nam từ hơn 2000 năm qua để ngày nay Việt Nam trở thành hội chứng của văn minh nhân loại (Syndrome of Human Civilization). Hội chứng này tạo ra một bi kịch nhân sinh hãi hùng nhất của lịch sử văn minh nhân loại. Trong hơn hai ngàn năm, kể từ đời Tần, Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, rồi cuối cùng là nhà Thanh, đều đã xua quân xâm lăng và đặt ách thống trị cực kỳ khắc nghiệt lên đầu lên cổ người dân Việt. Sau đó là thực dân Pháp, và cuối cùng là hàng ngũ quốc tế Cộng Sản -- tất cả đều đúng như Arnold Toynbee đã nói: "sự suy đồi hư hỏng thê thảm của lịch sử con người" đã đổ tràn trên dòng sử mệnh Việt.
Không chỉ có con người thuộc dòng giống Việt chịu thử thách kinh hoàng -- mà cả nền văn minh tinh thần của Hùng Gia Đại Việt tối cổ từ hơn 4000 năm qua cũng chịu chung số phận đau thương với người dân đất Việt. Sống trên những thử thách hãi hùng triền miên như thế, đời sống con người còn đâu lễ nghĩa, còn đâu nhân tính, nhân cách, còn đâu nhân phẩm và còn đâu nhân tâm nữa?
Thật đúng như Giambattista Vico (1668-1774) đã có lần nhận định: "Lịch sử của con người có thể biết được; bởi vì chính con người đã làm nên lịch sử; cũng như vũ trụ thiên nhiên mà chúng ta biết từ đấng Tạo Hóa; bởi vì chính đấng Tạo Hóa đã sáng tạo ra nó."
Ngày nay nhìn vào lịch sử phát triển của cả hai nền văn minh Đông Phương và Tây Phương từ 2500 năm qua, thì đều thấy các dòng lịch sử ấy đều do con người làm ra.
* Những con người ấy là ai, tại sao họ làm được những điều như thế?
* Ai là những kẻ tội đồ cho những suy đồi hư hỏng thê thảm trong lịch sử?
* Ai đã tạo ra những bi kịch não nề cho con người?
* Nếu mục tiêu tối hậu của Thượng Đế là cứu vãn nhân tính cho tất cả nhân loại thì con người phải làm gì để tự cứu vãn chính mình ra khỏi sự suy đồi hư hỏng thê thảm trong lịch sử?
* Muốn cứu vãn nhân tính cho con người thì trông vào thế quyền hay thần quyền?
Toynbee chú tâm tới không phải con người, nhà nước, mà chú tâm tới văn minh. Ông định nghĩa nó trên những ý nghĩa và giá trị tinh thần. Một nền văn minh có thể được định nghĩa như một nỗ lực để tạo nên một xã hội trong đó tất cả nhân loại sống với nhau trong cảnh thái hòa hợp nhất như những thành viên của một cơ cấu duy nhất -- tất cả thành một gia đình, gia đình nhân loại (global family). Nhìn tôn giáo, Toynbee cho rằng, "tôn giáo cao cả đã giải phóng con người thoát khỏi tù ngục lao lung trong đời sống xã hội mà họ đã thừa hưởng từ tổ tiên và tiền nhân của họ. Đó là điều đã được nói đến như Thượng Đế đã đem đến cho lịch sử, coi đời sống con người như một hiện thân của đời sống tự do phóng khoáng của tâm linh đã được đấng Tạo Hóa dựng lên để vui hưởng niềm hạnh phúc bất tận sau này."
NHỮNG THỬ THÁCH CỦA VĂN MINH ĐÔNG PHƯƠNG
Tại Đông Phương, nơi chiếc nôi văn minh tinh thần đã sản sinh ra ba dòng đạo lý của Tam Giáo, nhưng kể từ Tần Thủy Hoàng đốt sách và chôn học trò để đem hình pháp và bạo lực vào chính trị từ hơn 2000 năm qua, thì kể từ đó đạo lý chính trị của Nghiêu - Thuấn, Văn - Vũ, Chu Công, Khổng Tử đặt ra đã bắt đầu tàn lụi để cho các chế độ quân chủ phong kiến thống trị các dân tộc Đông Phương suốt bao ngàn năm qua. Từ ngày Đổng Trọng Thư đặt ra trật tự quân thần, tức ba giòng mối chính trong xã hội là Quân - Sư - Phụ thì Nhân - Lễ - Nghĩa -Trí - Tín cũng không còn được các vương quyền và các nho quan từ đời nhà Hán đến đời nhà Thanh chú tâm nữa. Vì thế đạo lý của Tam Giáo vẫn còn sống trong dân gian, nhưng đã thực sự chết trong đời sống chính trị và chết luôn trong lịch sử con người Đông Phương.
Nhân trị, đức trị và lễ trị rút ra từ ngũ kinh của Nho Giáo chỉ còn là hư văn cho bọn nho quan tầm chương tích cú để tìm kiếm bả lợi danh ích kỷ cho riêng thân mình. Hình pháp và bạo lực của đao kiếm cũng như trật tự quân thần là quân - sư - phụ trở thành phương tiện hữu hiệu để biện minh sự chính thống và chính danh cho các vương quyền và nho quan bảo vệ những chiếc ngai vàng mục nát của họ. Đó là chỗ tai hại cho tinh thần tôn quân; không phải của Nho Giáo; mà là của TẦN NHO, HÁN NHO, TỐNG NHO hay THANH NHO suốt bao ngàn năm qua.
Vì thế xưa Phu Tử thường nói: "Quân tử có dũng mà không có lễ thì dễ làm loạn, tiểu nhân có dũng mà không có nghĩa thì sẽ làm giặc." Trong lúc ấy minh quân xuất hiện trong lịch sử rất hiếm. Phần đông các vua quan đều là loại người phi lễ nghĩa, phi nhân tính, phi nhân cách, nhân phẩm và nhân tâm nên "sự suy đồi hư hỏng thê thảm trong lịch sử con người" như Toynbee đã nhận xét.
Đối với nòi giống Việt, để sống còn và tiến hóa, con người đã phải phấn đấu triền miên với nạn đao kiếm của tất cả các triều đại của người phương Bắc. Những cuộc tranh hùng với Tần - Hán - Đường - Tống - Nguyên - Minh - Thanh đã vẽ lên toàn bộ lịch sử đau thương của đất Việt. Nền văn minh Việt vừa chớm nở đã bị vây hãm và đè bẹp bao ngàn năm qua mà chưa một lần có cơ hội phục hoạt, hồi sinh lại thì làn sóng Thực Dân và sau đó là Cộng Sản đã tìm mọi cách để hủy diệt trọn vẹn nền đạo lý cổ xưa của tổ tiên. Nước mất , nhà tan vì thế!
Vì thế những con người thời đại hôm nay không thể không học những bài học đau thương và nhục nhã trong suốt bao ngàn năm lịch sử bão bùng đó của nòi giống mình -- một nòi giống mà đặc tính là NHU - THUẬN của người phương Nam. Tự ngàn xưa khi Tử Lộ hỏi Khổng Tử về cái tính hùng cường của con người, Khổng Tử giảng giải: "loại người mặc áo giáp, lưng đeo cung, ngồi trên mình ngựa, coi cái chết tựa như lông hồng; đó là cái mạnh của người phương Bắc. Loại người còn lại, khoan hòa, uyển chuyển, nhân ái và nhu thuận; họ thường có lòng nhân từ bất báo kẻ vô đạo -- đó chính là cái mạnh của người phương Nam. Người quân tử thích cái mạnh đó. (khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo, Nam phương chi cường dã, quân tử chi ca) (Luận Ngữ, chương X)
Nhờ cái đặc tính nhu thuận đó mà dân tộc Việt còn sống còn đến ngày nay. Khốn thay! Khốn thay! Nếu nòi giống Việt từ bao ngàn năm không bị Hán hóa hay tiêu diệt cũng nhờ bản tính nhu thuận của mình - thì giờ đây cái tinh thần dân tộc cao quý ấy đã bị chính Hồ Chí Minh và đảng CSVN vây hãm, vùi dập và phá hủy tận gốc rễ để chúng dễ bề ngồi trên đầu trên cổ dân tộc để hiếp đáp và hành hạ suốt 70 năm qua.
ĐÓ LÀ CÁI TAI HẠI CỦA NHỮNG KẺ VÔ THẦN. Trong lúc bọn Tần Nho, Hán Nho, Minh Nho, Tống Nho và Thanh Nho có bạo ngược tham tàn, độc ác và bất nhân thật, nhưng vẫn chưa phải là những con người vô thần như Cộng Sản. CS là những kẻ mù lòa vì những tham vọng thấp hèn trước danh lợi ích kỷ cho riêng mình, riêng đảng của mình mà đang tâm hủy diệt tận gốc rễ gia sản tinh thần của nền văn minh Việt đã xây đắp từ hơn 4000 năm qua. Chính từ đó cái tinh thần "khoan nhu dĩ giáo, bất báo kẻ vô đạo" truyền thống của người dân Việt đã bị chôn vùi tiêu hủy bởi tính cách vô thần của CSVN.
Mục đích của duyệt xét lại lịch sử văn minh là làm sáng tỏ thứ chính trị hữu đạo và chính trị vô đạo trong suốt bao ngàn năm lịch sử. Cái lầm lạc tai hại nguy hiểm của con người là nhìn Tần Nho, Hán Nho, Minh Nho, Tống Nho và Thanh Nho mà cứ tưởng đó là con đường đạo lý chính trị của Nghiêu-Thuấn, Văn-Vũ, Chu Công và Khổng Tử nên đã lên tiếng chê bai, lăng nhục và khước từ chính giáo. Làm sao con người có thể đồng hóa giữa hình pháp và bạo lực của Tần Thủy Hoàng và tất cả các triều đại quân chủ chuyên chế của Trung Hoa với con đường vương đạo các tiên nho?
Ngày nay muốn xét xem đâu là chính đạo và đâu là tà đạo thì cứ nhìn quả biết cây: bởi
1. Nếu đường lối chính trị của một quốc gia theo con đường vương đạo thì chắc chắn dân sẽ hưởng được ngũ phúc: SỐNG THỌ, GIẦU CÓ, YÊN VUI, NHÂN ĐỨC, CHẾT GIÀ TRONG BÌNH AN.
2. Nếu đường lối chính trị quốc gia theo con đường bá đạo, tức chỉ dùng hình pháp và bạo lực thì chắc chắn dân sẽ chìm đắm trong lục cực: CHẾT NON, SỐNG BỆNH TẬT, LO ÂU TUYỆT VỌNG, NGHÈO KHÓ GIAN NAN, HAY GÂY TỘI ÁC, SỐNG YẾU ĐUỐI VẬT VỜ. (Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ)
Khi nhà Thanh đi vào suy thoái, Khang Hữu Vi, Đàm Tử Đồng và Lương Khải Siêu đã nhờ các giáo sĩ Kitô giáo đến truyền đạo tại Trung Hoa giúp cho họ hiểu được một phần về văn minh Tây Phương, nhưng vì thiếu sự hiểu biết sâu xa và những kiến thức về Tây Phương nên cuộc cách mạng Tân Hợi chỉ đưa ra những khái niệm lờ mờ về dân tộc, dân sinh và dân quyền. Mặc dù họ đã nỗ lực không ngừng để tìm kiếm một giá trị tổng hợp Đông - Tây, nhưng giá trị cốt lõi của Nguyên Nho không được làm sáng tỏ. Trong lúc các giá trị cột trụ của văn minh Tây Phương là TRIẾT HỌC, KHOA HỌC và THẦN HỌC THIÊN CHÚA GIÁO họ không nắm được, nên mục đích tổng hợp của họ đã thất bại. Bởi vì đạo lý cổ xưa đã tàn tạ, héo úa; còn cái mới chưa học xong. Sự bế tắc của lịch sử nằm ở đó.
NHỮNG THỬ THÁCH CỦA VĂN MINH TÂY PHƯƠNG
Nếu nền văn minh tinh thần của Tam Giáo tại Đông Phương đã chịu đựng thử thách khốc liệt hơn 2000 năm qua vì chủ trương cai trị con người là hình pháp và bạo lực của tất cả mọi triều đại từ nhà Tần đến nhà Thanh -- thì tại Tây Phương nền văn minh tinh thần của Kitô giáo cũng phải trải qua gần 2000 năm thử thách, không chỉ với các vương quyền từ thời Constantine (306-377) đến thời Philip IV của Pháp vào thế kỷ 13 và 14 mà tiếp theo đó là thời phục hưng, rồi thời kỳ cách mạng khoa học, thời đại ánh sáng và sau chót là các làn sóng cách mạng xã hội tại Pháp và cách mạng của phong trào Cộng Sản vô thần vào thế kỷ XX.
Như vậy ánh sáng của Cựu Ước và Tân Ước đã truyền vào Tây Phương từ 2000 năm và trải rộng khắp thế giới tối thiểu là 500 năm nay. Tuy nhiên đạo lý của Thiên Chúa lại quá chú trọng vào phần công truyền (Formalism) mà rất ít người chú ý tới phần TÂM TRUYỀN mà chính Chúa Jesus Kitô muốn đem đến cho tất cả nhân loại trong Tân Ước.
Vào thời đầu của Trung Cổ, cả Âu Châu bước vào thời đại của bóng tối (Dark Age) (476-1000). Người ta cho rằng con người phải sống vào thời đại của bóng tối; bởi vì họ đã đánh mất đi ánh sáng của văn minh Thượng Cổ Hy Lạp như triết lý khoa học, ngôn ngữ và luật pháp. Hy Lạp và La Mã đúng là chiếc nôi của văn minh Tây Phương, ở đó các triết gia và các nhà khoa học luôn luôn chú tâm tới việc khám phá những luật lệ thiên nhiên đang vận hành trong vũ trụ. Con người luôn luôn tin tưởng vào triết lý -- bởi vì triết lý có nghĩa là: TÌNH YÊU với KIẾN THỨC và MINH TRIẾT.
Đầu tiên các triết gia cố gắng để tìm hiểu xem thế giới đến từ đâu và cái gì làm ra thế giới đó. Ngày nay được gọi là sự tìm kiếm của khoa học. Người Hy Lạp dùng triết học và khoa học để tìm kiếm sự thật về con người. Socrates kêu gọi và khuyến khích con người xử dụng lý trí để tìm kiếm, học hỏi. CUỘC THẢO LUẬN TRƯỚC TIÊN CỦA TRIẾT HỌC LÀ THẢO LUẬN VỀ MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA NGƯỜI VÀ NGƯỜI; GIỮA NGƯỜI VÀ VŨ TRỤ THIÊN NHIÊN TRONG VŨ TRỤ. Socrates -- con người đáng kính của thành Athens, ông là người đầu tiên đi tìm minh triết và ý nghĩa cuộc đời. Ông tin tưởng rằng CÓ NHỮNG LUẬT LỆ TRONG VŨ TRỤ ĐỂ GIẢI THÍCH VŨ TRỤ, VÀ VÌ VŨ TRỤ CÓ NHỮNG ĐIỀU TỐT ĐẸP VÀ CÔNG LÝ. TỪ ĐÓ CON NGƯỜI SẼ BIẾT VỀ CHÍNH HỌ ĐỂ TẠO RA NHỮNG TIÊU CHUẨN HAY QUI LUẬT CHO CUỘC SỐNG CHO HỌ.
Phải thờ cúng các vị thần trong truyền thống Hy Lạp và chú tâm tới hạnh phúc chung của Đô Thị.
Sau Socrates, Plato đã khai sinh ra chế độ cộng hòa. Đó là con đường chính trị vương đạo như Đông Phương. Quốc gia phải đặt trên nền móng công lý và các công dân phải trung thành với quốc gia và quốc gia được cai trị bởi các vương quyền cũng là các triết gia.
Người Hy Lap tự tin rằng con người có khả năng để cai trị chính mình. Vì thế Đô Thị đã khuyến khích các công dân phát triển những tài năng của họ. Đô Thị không những cho công dân quyền chính trị mà còn tạo nhiều cơ hội để người dân được phát triển tất cả tiềm năng của họ.
ĐÔ THỊ ATHENS LÀ TRUNG TÂM VĂN HÓA CỦA THẾ GIỚI THƯỢNG CỔ VÀ LÀ CHIẾC NÔI CỦA VĂN MINH TÂY PHƯƠNG. Nền dân chủ tại Athens phát triển từ từ, bắt đầu từ 1200 đến 800 B.C.. Hy Lạp theo tôn giáo đa thần. Đứng đầu là thần mặt trời (Zeus), con gái của thần mặt trời là nữ thần của minh triết (Athena), người con gái kế tiếp là nữ thần của tình yêu (Aphrodite) và thần ánh sáng , âm nhạc và thi ca (Apollo). Như vậy ba cột trụ chính của văn hóa Hy Lạp MINH TRIẾT, TÌNH YÊU, và ÁNH SÁNG . Ngoài ra còn rất nhiều vị thần khác nữa. Tất cả đều sống trên núi Olympas tại Hy Lạp. Vì vậy TRIẾT LÝ HY LẠP LUÔN LUÔN MANG MÀU SẮC TÔN GIÁO. Tuy nhiên vào thời Phục Hưng (1350-1600) và thời Ánh Sáng vào thế kỷ 17 các triết gia Tây Phương phần đông đã bỏ quên luôn màu sắc tôn giáo trong truyền thống Đa Thần cua Hy Lạp để tôn sùng khoa học vật chất mà thôi. Đó là tất cả đặc tính của thời hiện đại (modern age) (1350-2007).
Ngày nay muốn hiểu tại sao nền văn minh tinh thần (spiritual civilization) của Âu Châu rơi vào cơn khủng hoảng từ hơn 600 năm qua, người ta phải duyệt xét lại những giai đoạn phát triển và thăng trầm của Kitô giáo. Trong đó GIÁO HỘI TIÊN KHỞI bắt đầu từ năm 42 A.D. do các thánh Phao Lồ (Paul) và thánh Phê Rô (Peter) truyền vào La Mã. Đây là giai đoạn tinh rồng nhất của đạo lý Kitô giáo, nhưng đã trải qua gần 300 năm bị bách hại từ mọi phía, nhất là các vương quyền La Mã đều cảm thấy giáo lý của Tân Ước rất nguy hiểm cho ngôi thiên tử của họ và nguy hiểm cho cả các vị thần linh của họ nữa. Càng bị bách hại thì máu tử đạo càng nhiều hào quang rực rỡ.
Từ triều đại của Constantine (303-377) của Tân La Mã, cả dân Âu Châu đã được Kitô hóa nên Giáo Hội được Constantine ban cho nhiều nhà đất và rất giàu có, nhưng thế quyền vẫn là tối thượng và tôn giáo bị kiểm soát chặt chẽ.
Tại các nước Đông Âu, các hoàng đế sau Constantine đã cai trị tôn giáo bằng những bàn tay sắt. Trong đó Caesar đã hành động như một vị giáo hoàng và xen trực tiếp vào những việc của Giáo Hội.
Trong lúc đó Giáo Hội luôn luôn tìm mọi cách để chống lại thế quyền và bảo vệ sự độc lập của Giáo Hội. Đến thời của giáo hoàng Leo I (440-461) thì quyền tài phán riêng tư của Giáo Hội đã đạt được. Vào cuối năm 455, giáo hoàng Galasius I (492-496) đòi hỏi QUYỀN NĂNG CỦA GIỚI TĂNG LỮ PHẢI TỐI THƯỢNG HƠN QUYỀN NĂNG CỦA CÁC VUA. Tuy nhiên vị trí độc lập của Giáo Hội luôn luôn bị đe dọa bởi tham vọng của các vương quyền. Vì thế đến thời giáo hoàng Gregory The Great (590-604) luôn luôn phải có những cuộc thương thuyết với hoàng đế Lombard để được độc lập.
Đứng trước bao áp lực mạnh mẽ của thế quyền, Giáo Hội còn bị rơi vào tình trạng chia rẽ thành Giáo Hội Tây Âu và Đông Âu. Giáo Hôi Tây Âu nói tiếng La Tinh và Giáo Hội Đông Âu thì nói tiếng Hy Lạp. Cả hai đều muốn độc lập với thế quyền nhưng cả hai đều thất bại.
Giáo Hội Tây Âu thường độc thân vì họ được khuyến khích theo văn hóa tu viện.
Giáo Hội Đông Âu cho phép tu sĩ lấy vợ, nhưng các giám mục thì tuyệt đối cấm. Giáo Hội Đông Âu chỉ tin vào Thánh Kinh và họ không tin vào các lời dậy của Roma.
Đến năm 754, đức giáo hoàng Stephen II (752-757) bắt đầu có nhiều hành động chống lại hoàng đế Lombard. Tại vương quốc Pháp, vào triều đại của Charlesmagne (768-814) đã dùng mọi nỗ lực để bảo vệ giáo hoàng và ông đã xâm lăng nước Ý và hoàng đế Lombard đã phải đầu hàng. Charlesmagne đã bắt dân Anh phải Kitô hóa một cách hết sức tàn bạo. Sau đó lan đến các quốc gia khác như Bỉ, Hòa Lan, Thụy Sĩ và Tây Ban Nha.
Vào chóp đỉnh của thời Trung Cổ (1000-1300), đây là giai đoạn phát triển toàn vẹn tiềm năng của văn minh Trung Cổ. Các chế độ quân chủ xuất hiện tại Pháp, Anh và Đức. Nghị viện là nơi hội họp để bàn về quyền hành và quyên lợi của tầng lớp quý tộc, tu sĩ và thứ dân.
Cho mãi đến thế kỷ 12 mới thực sự là thời phục hưng của các giá trị cổ xưa. GIÁO HỘI ĐỘC LẬP VỚI CÁC VƯƠNG QUYỀN ĐỂ MỞ ĐẦU CHO GIAI ĐOẠN TÁCH GIÁO HỘI RA KHỎI NHÀ NƯỚC (separation of church and state). Trong các cuộc phấn đấu liên tục giữa Giáo Hội và thế quyền đã làm nảy sinh tư tưởng cải cách tôn giáo sau những thời gian đen tối để chu toàn nhiệm vụ tinh thần (spiritual mission) của Giáo Hội.
Trong vương quốc Đức vào thời Ott (936-973) đến với Giáo Hội, các tổng giám mục và các bề trên (abbots) và biến họ thành những kẻ phục vụ trong guồng máy hành chánh. Năm 961, hoàng đế Ott đã gọi giáo hoàng John XII (955-964) để quì xuống cho giáo hoàng đội triều thiên lên đầu, nhưng Giáo Hội chỉ là lưỡi gươm của vương quyền. Ott kiểm soát chặt chẽ tôn giáo và tuyên bố rằng: "TỪ NAY KHÔNG CÓ GIÁO HOÀNG NÀO NHẬN CHỨC MÀ KHÔNG THỂ TRUNG THÀNH VỚI HOÀNG ĐẾ."
Tuy nhiên vào thời Henry IV (1056-1106) một vị giáo hoàng Stephen IX thuộc phe cải cách đã bắt đầu công khai tuyên bố: "GIÁO HOÀNG ĐĂNG QUANG MÀ KHÔNG CẦN HOÀNG GIA PHÊ CHUẨN NỮA." Vào thời giáo hoàng Nicolas II (1059-1061) đã thành lập Hội Đồng Hồng Y (the college of Cardinal) vào năm 1059" để khai sinh ra cơ cấu tuyển chọn giáo hoàng. Chỉ trước đó 13 năm, HOÀNG ĐẾ HENRY III ĐÃ TỰ Ý TRUẤT PHẾ BA GIÁO HOÀNG VÀ LẬP MỘT GIÁM MỤC ĐỨC CAI QUẢN GIÁO HỘI. ĐÓ LÀ ĐỨC GIÁO HOÀNG CLEMENT II (1046-1047).
Những thái độ kiêu căng như Henry III đã chấm dứt sau năm 1059 khi Hồng Y đoàn đã được thành lập và tuyên bố hoàn toàn độc lập với vua nước Ý và các vua ở ngoài.
Tuy nhiên đến thời Henry IV là người vẫn muốn nuôi dưỡng đặc tính thần quyền trong đế quốc của ông. GIÁO HỘI và GIÁO HOÀNG là những thành phần không thể tách khỏi vương quyền. Năm 1084, Henry IV thống trị tuyệt đối và lập nên một lực lượng chống giáo hoàng (anti-pope). Xử dụng giáo hoàng Clement III và buộc giáo hoàng của Giáo Hội là Gregory phải lưu đày biệt xứ.
Và vương quyền và thế quyền luôn luôn tương tranh với nhau khốc liệt. Những cuộc va chạm và tương tranh vẫn tiếp tục diễn ra vào thế kỷ thứ 13 và 14 giữa giáo hoàng Boniface VII và vua nước Pháp là Philip IV.
BỐI CẢNH LỊCH SỬ THỜI PHỤC HƯNG (1350-1600)
Thời Phục Hưng đã đem đến cho Âu Châu một tinh thần mới với những đặc tính như sau:
1 - Từ thời trung cổ bước sang thời Hiện Đại (Modern Age)
2 - Đề cao chủ nghĩa cá nhân và tự do cá nhân
3 - Đề cao quyền lợi và thú vui phàm tục
4 - Xóa bỏ Chủ - Nô
5 - Đòi hỏi tinh thần độc lập các quốc gia
6 - Không quan tâm tới kiếp sau khi chết
7 - Muốn tách khỏi đức tin Kitô giáo.
Mẫu người của thời Phục Hưng phát huy niềm tin vào chính họ. Cố gắng tìm kiếm sự hiểu biết và phiêu lưu để tìm đất mới. Con người muốn làm ra thật nhiều tiền để sống thoải mái và sa hoa. Họ cho rằng Giáo Hội chỉ chú ý tới đời sống tinh thần, ngược hẳn lại những khao khát trần thế. Giá trị của tiền của vật chất gia tăng và bành trướng khắp nơi làm cho ảnh hưởng của quân chủ phong kiến phai mờ dần. Thời Phục Hưng không phải xảy đến trong một đêm mà là ảnh hưởng và thành quả của sự lớn mạnh bắt đầu từ cuối thời Trung Cổ. Khi các giá trị vật chất gia tăng và trở nên quan trọng thì quyền kiểm soát đất đai của giai cấp phong kiến và quyền kiểm soát của Giáo Hội cũng mất dần từ đó. Bởi vì con người thời đại Phục Hưng chỉ chú trọng tới các cuộc truy hoan trần thế. Rốt cuộc chính giới tăng lữ cũng bị cuốn hút theo làn sóng vật chất này.
Thời kỳ Phục Hưng bắt đầu từ Ý rồi lấn dần ra khắp Âu Châu. Ông hoàng của thời Phục Hưng là Lozenro de Medici sẵn sàng hỗ trợ cho các học giả và từ đó chủ nghĩa nhân bản (Humanism) là lực lượng dẫn đầu cho thời Phục Hưng. Quan điểm của chủ nghĩa nhân bản đã tác động, ảnh hưởng và uốn nắn những suy tư của các nghệ sỉ, các nhà văn và các nhà khoa học. Từ đó con người hồi tưởng lại thời cổ đại Hy Lạp và La Mã đều có những lối sống như thế. Chủ nghĩa nhân bản đã nghiên cứu kỹ lưỡng các dòng văn chương và nghệ thuật của Hy Lạp và La Mã để tìm kiếm hứng khởi cho những sáng tạo của họ.
Đặc biệt hơn cả là tư tưởng chính trị của thời Phục Hưng đã gây nên những ảnh hưởng không sao tưởng tượng được. Tại thành Florence, một người Ý đã xuất hiện như một tư tưởng gia chính trị thiên tài. Đó là Machiavelli với tập sách thật mỏng của ông là Le Prince để dậy cho các ông hoàng Âu Châu đi nắm đầu thiên hạ suốt gần 700 năm qua trên toàn thế giới. Machiavelli được mô tả là tổ tiên của tất cả các nhà độc tài trên toàn thế giới.
Nếu tư tưởng pháp gia của Hàn Phi Tử, Lý Tự và Thương Ương đã giúp cho Tần Thủy Hoàng và tất cả các triều đại tại Trung Hoa làm tình làm tội các dân tộc Đông Phương thì Machiavelli đã dậy cho tất cả các nhà độc tài nắm đầu trên toàn thế giới. Cuốn Le Prince không chỉ đem đến cho các ông hoàng thời phục hưng có một kỹ thuật siêu việt để thâu tóm quyền lực và duy trì quyền lực, mà ảnh hưởng của nó đã tạo thành các lán sóng cách mạng thật đẫm máu. Chính làn sóng QTCS cũng từ chiếc nôi này mà bước ra đi gieo rắc đau thương cho tất cả nhân loại.
Machiavelli dậy các nhà độc tài rằng:
1 - Phải có sức mạnh. Muốn có sức mạnh thì phải biết độc ác và tàn bạo với con người.
2 - Đừng rụt rè e ngại khi phải lừa đảo, trí trá và gạt gẫm tất cả mọi người.
3 - Đừng coi luật pháp là gì cả! Bởi vì sức mạnh của bạo lực là luật rồi.
Vì thế Machiavelli được những con người còn biết tôn trong đạo lý và tình yêu của con người nói về Machiavelli như sau:
"Đây là ngôn sứ của bày quỉ dữ (A spoken man of Devil) và vị ngôn sứ ấy đã khơi đúng cái mạch sống tiềm ẩn nơi mặt trái tồi tệ nhất của con người trần thế. Tàn bạo, phũ phàng, độc ác, nham hiểm, trí trá, lọc lừa, phỉnh phờ, lường gạt tất cả mọi người miễn là nắm được và duy trì được quyền lợi chính trị."
Đó là tất cả lý do tại sao Toynbee nói rằng: "Những suy đồi hư hỏng thê thảm trong lịch sử con người." Tư tưởng này đã ảnh hưởng trực tiếp vào tất cả các cuộc cách mạng thuần túy bạo lực trên toàn thế giới.
NHỮNG BIẾN CỐ LỚN SAU THỜI PHỤC HƯNG (1450-1632)
1 - Đó là cuộc cách mạng khoa học.
Khởi đầu là của nhà thiên văn Copernicus, rồi Galileo, Newton, Kepler, Descarter và Bacon. Có thể gọi họ là những nhà thiên nhiên học (naturalists), hay các nhà khoa học tự nhiên hay các nhà vật lý và các nhà thiên văn .
Trên mức độ nghiên cứu thực nghiệm, vật lý được nhìn như thứ khoa học tự nhiên, và hầu như các nhóm khoa học đều thuộc về khoa học tự nhiên. Trong những trường hợp sau này ngành vật lý hay khoa học tự nhiên gồm có cả những lãnh vực như thiên văn, cơ học, nhãn khoa, thính thị và động cơ, nam châm, điện lực, và đôi khi có cả hóa học, sinh vật học và ngay cả tâm lý học cũng được coi là đứng dưới sự hướng dẫn của khoa vật lý, hoặc khoa học tự nhiên. Bởi vì sự liên hệ của vật lý với các ngành khoa học khác, hoặc các phần khác của triết lý, điều đó dẫn đến tư vấn chẳng hạn như -- hoặc giả vật lý là môn học siêu đẳng giữa các khoa học, nghiên cứu, học hỏi về tính chất thiên nhiên căn bản nơi các sự vật, hoặc vật lý là tất cả khoa học.
Các nhà khoa học cho rằng mục tiêu của các cuộc nghiên cứu về một thế giới linh động với mọi sự đang biến dịch chuyển hóa (motion). Trong bất cứ quan điểm của ai, nếu khoa học tra xét nghiên cứu những thực tế linh động; nếu không cố gắng nắm được những chuyển động của thực tế linh động đó hay chỉ nói tới một cách khái quát, nếu không bám sát để chăm chú tới hiện tượng về sự biến dịch chuyển hóa, thì sau đó không nắm được cái đặc tính của vật lý hay khoa học tự nhiên.
Những nhà vật lý lúc ban đầu ở Hy Lạp, thời tiền Socrates, đó là những người mà Plato và Aristostle đã đề cập đến -- họ đã bắt đầu nghiên cứu về sự chuyển dịch với những suy luận về nguồn gốc khởi nguyên, nằm bên ngoài, hay bên trên -- hoặc là khởi nguyên của các hiện tượng thiên nhiên.
Đến thời Newton, Ông có thể gọi những công trình của ông là triết lý thiên nhiên, ông cũng đưa đến cho nó một thứ triết lý có thí nghiệm. Trước kia chỉ có suy tư mà không có thí nghiệm. Newton tuyên bố: "Thiên nhiên trong sáng với sự đơn giản và những tầm ảnh hưởng xuất phát từ những nguyên nhân cũng thấy có sự rườm rà " vào cả trong phần mở đầu cuốn sách: "Mathematic Principle of Natural Philosophy) ông đã đặt xuống những nguyên tắc về triết lý, và cả toán học. Từ đó chúng ta có thể xây dựng những lý lẽ của chúng ta khi nghiên cứu về triết lý. Những nguyên tắc này là những luật lệ về sự chuyển dịch. Từ những nguyên tắc như thế Newton đã cố gắng chứng minh về một hệ thống của thế giới thiên nhiên.
Còn Bacon thì nhấn mạnh đến kiến thức thực tiễn đem đến cho chúng ta quyền lực để kiểm soát thiên nhiên và sau đó làm ra những sản phẩm. Bacon tách triết lý tự nhiên ra khỏi triết lý nhân sinh và triết lý xã hội và chia tiếp triết lý tự nhiên thành hai phần suy tư chính -- vật lý và siêu hình học và hai ngành thực hành chính là cơ học và ảo thuật.
Newton mở ống kính thiên văn với một câu nói: "sự thiết kế của tôi trong cuốn sách này không phải để giải thích về số lượng ánh sáng bởi một giả thuyết mà để đề nghị và chứng minh bằng lý trí. Như một nhà thí nghiệm, tôi cảm thấy gắn liền với thí nghiệm..."
Chính Galileo cũng đã liên kết giữa toán học và thí nghiệm trong những công trình nghiên cứu thế giới thiên nhiên của ông.
Descarter khi thảo luận về nghiên cứu thiên nhiên, ông đã hướng thẳng tới khuynh hướng thí nghiệm (experimentalism). Descarter tuyên bố: "những thí nghiệm trở thành quá cần thiết -- hơn nữa đó là một kiến thức tiến bộ. Khoa học được coi như là kiến thức đã được tìm thấy trong cuộc thí nghiệm, hoặc tối thiểu là trên những quan sát. Đó là điều thiếu sót của thời thượng cổ; họ không có thí nghiệm như thời hiện đại.
Bacon và Descarter dường như là những người đầu tiên nhận định rằng kiến thức là thí nghiệm tự nguồn gốc và phải đem nền tảng đó áp dụng vào kỹ thuật. Các phương tiện khoa học quá cần thiết, không kém gì máy móc và những phát minh khoa học ước mong sản xuất được. Khoa học thực nghiệm vì vậy là một sáng tạo và từ đó con người tạo ra kỹ thuật.
Vào thế kỷ 19, Augustine Comte sáng tạo nên một chủ thuyết, dưới tựa đề triết lý thực chứng (positive philosophy), đã công khai tuyên bố rằng chỉ có những khoa học thực chứng (positive science), nghiên cứu về những hiện tượng thiên nhiên tinh thần và xã hội bằng phương pháp thực nghiệm -- mới đáng gọi là "khoa học" trong ý nghĩa đáng ca ngợi của chữ khoa học. Ngược lại, triết lý chỉ thuần túy là suy diễn, và tôn giáo là thứ mê tín dị đoan.
QUAN ĐIỂM CỦA COMTE LÀM THÀNH MỘT THÁI ĐỘ PHỔ QUÁT CẢ THẾ GIỚI NGÀY NAY DƯỚI NHÃN HIỆU THỰC CHỨNG (positivism). Nhận ra khoa học với kiến thức rõ rệt như một sự kiện hiển nhiên phải giới hạn thứ kiến thức đó rồi dẫn đến những kết luận, sau đó kiểm chứng lại bằng cách thực nghiêm. Bất cứ cái gì không hợp với quan niệm về khoa học, thì một là toán học, hoặc là luận lý, giống như triết lý và tôn giáo -- đó chỉ là thứ đoán mò, ý kiến này nọ, hoặc tín ngưỡng riêng tư, chủ quan và quá vu vơ.
Tâm lý học được coi là ngành của triết lý, hay là nhà khoa học và tuyên bố tâm lý học là thứ khoa học thực chứng. Theo Freud cho biết, vì xã hội học là môn học lo về nhân cách của con người trong đời sống xã hội. Không có gì ngoài việc áp dụng tâm lý học vào xã hội học.
Trong cuốn "New Inductrory Lectures on Psycho-analysis" Freud cho rằng, điều cần nói là không có một nguồn gốc nào của kiến thức trong vũ trụ, mà chỉ có dẫn đường của trí thức với tất cả sự thận trọng trong việc kiểm chứng lại sự quan sát khách quan. Freud công khai tuyên bố: "Khoa học là ngành học của sinh hoạt trí thức về con người và rằng tôn giáo và triết lý chỉ có giá trị tối thiểu như một sự đe dọa tới sự thống trị của khoa học trên con người và xã hội: "CHỈ CÓ MỘT MÌNH TÔN GIÁO THỰC SỰ LÀ MỘT THỨ KẺ THÙ NGUY HIỂM." Tôn giáo và khoa học có thể được coi là tương xứng nếu tôn giáo đem đến cho những con người một điều gì đó đẹp đẽ mỹ miều hơn, thoải mái dễ chịu hơn, và cao thượng sáng giá hơn bất cứ thứ gì mà họ không bao giờ có được từ khoa học.
Nhưng tôn giáo không thể nói như thế, Freud nghĩ rằng, mà không mất đi "tất cả ảnh hưởng với đám đông của nhân loại."
"Chỉ có một mình khoa học mà thôi mới có thể đi tới với lời giải đáp cho thực tế." Đó là sự "giải đáp thỏa đáng với thế giới ngoại lai thực sự mà chúng tôi gọi là chân lý. Vì lẽ đó khi tôn giáo kêu nài rằng tôn giáo có thể đứng vào chỗ đứng của khoa học và rằng đó là một lợi ích cao thượng -- lời tuyên bố đó, trên thực tế chứng minh rằng, đó là môt vi phạm, từ đó vì quyền lợi của mọi người, điều đó phải được chống lại."
Sự thật tôn giáo có thể nói là: "ĐÂY LÀ MỘT SỰ KIỆN CÓ THẬT, ĐÓ LÀ TÔI KHÔNG THỂ ĐEM ĐẾN CHO CÁC ANH ĐIỀU MÀ ĐÁM ĐÔNG GỌI LÀ CHÂN LÝ; ĐỂ CÓ THỂ CÓ ĐƯỢC ĐIỀU ĐÓ CÁC ANH PHẢI TÌM ĐẾN VỚI KHOA HỌC". Both together would be outcast from human culture.
Đối với Freud, cả hai thứ đó (triết lý và tôn giáo) đều phải quăng ra khỏi văn hóa của con người. TRIẾT LÝ KHÔNG CÓ GÌ HƠN TÔN GIÁO, CẢ HAI PHẢI THAY THẾ BẰNG KHOA HỌC. Đó là cái gì mà Freud cho là hy vọng sáng sủa nhất cho tương lai: "TRÍ THỨC - VỚI TINH THẦN KHOA HỌC VÀ LÝ TRÍ - ĐÃ ĐẾN ĐÚNG THỜI ĐIỂM THIẾT LẬP NÊN MỘT NỀN ĐỘC TÀI TRÊN TRÍ TUỆ CỦA CON NGƯỜI ( intellect - the scientific spirit, reason - should in time establish a dictatorship over human mind ). (viết theo The Great Ideas, chapter 83)
2 - THỜI KỲ ÁNH SÁNG VÀ LÀN SÓNG CHỐNG KITÔ GIÁO
Tiếp theo cuộc cách mạng khoa học là thời kỳ Ánh Sáng. Các triết gia và giới văn chương vào đầu thế kỷ 18 đã bị cuốn hút vào những khám phá mới do các nhà khoa học đem đến cho con người tại Âu Châu. Với tất cả những nhiệt tình nóng bỏng, các triết gia và các học giả chóa mắt vì những hào quang của chân lý mới do các ngành thiên văn và khoa học tự nhiên đưa ra. Vì thế họ đã đặt ngay ra những mục tiêu như tấn công vào các chế độ cổ hũ (ancient regimes), tỏ ra hoài nghi và tấn công vào thành trì của Kitô giáo và Giáo hội. Họ quay qua tôn sùng chủ nghĩa nhân bản của Thời Phục Hưng. Đối với những con người thời đại, lợi ích và thú vui trần thế phải được đề cao và khuyến khích. Họ tự thấy con người nay đã trưởng thành nên không còn tin vào Thiên Chúa và thần thánh nữa.
Các triết gia và các học giả, thi sĩ, nhạc sĩ, văn sĩ, họa sĩ trong nhóm Bách Khoa tại Paris là trái tim của thời kỳ Ánh Sáng. Những nhà cải cách chính trị từ Ediburgh đến Naples, từ Paris đến Berlin, từ Boston đến Philadelphia đều liên kết lại với nhau để đăng đàn diễn thuyết về chủ nghĩa nhân bản, chủ nghỉa thế tục (secularism) và cá nhân chủ nghĩa. Họ cổ súy tự do với nhiều hình thức của nó, tự do thoát khỏi quyền năng độc đoán, tự do ngôn luận, tự do kinh tế thương mại, tự do phát triển tài năng, tự do sáng tạo cái chân - thiện - mỹ.
Những nhóm người khác thì tham gia vào các khuynh hướng vô thần (atheism) và tôn thờ vật chất thế gian (materialism). Bên cạnh đó là những tự tưởng gia chính trị, xã hội đã tìm mọi cách để đề cao và phát huy những tư tưởng dân chủ. Người ta đề cao nhất là chủ nghĩa nhân bản phàm tục (secular humanism) để ồn ào chống lại mục tiêu cao cả của tôn giáo. Những con người thời đại Ánh Sáng là nhóm người ồn ào náo nhiệt nhất. Họ soạn thảo ra một chiến lược chính trị bằng cách tạo ra sự hận thù ngùn ngụt với Giáo Hội và nhà nước, và dồn mọi nỗ lực tranh đấu để dành ưu thế.
Họ biến Paris trở thành tổng hành dinh và là trung tâm của trí thức Âu Châu, và các triết gia của các quốc gia khác tuyên bố họ là môn đồ của các cây viết Pháp. Bởi vì Paris chính là Athens của thời hiện đại, MỘT THỦ ĐÔ ĐỂ DẬY DỖ VÀ NHÀO NẶN ÂU CHÂU .
Vào đầu năm 1706, Lord Shaftesbury đã viết cho Jean Le Clere: "ĐÃ CÓ MỘT ÁNH SÁNG ĐẦY QUYỀN NĂNG ĐANG CHIẾU RỌI KHẮP THẾ GIỚI." Những con người làm nên ánh sáng đó gồm có Voltaire, Rousseau, Diderot, Wieland, hoặc David Hume,...
Chủ nghĩa thực nghiệm của Anh (Bacon, Newton, và Locke) đã chuyển đổi thành chủ nghĩa duy lý (rationalism). MỤC TIÊU CỦA HỌ LÀ ĐỀ CAO KHOA HỌC, TRUYỀN BÁ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ ĐỂ THAY ĐỔI CHUYỂN HÓA CẢ ÂU CHÂU. Họ cho rằng triết gia là công dân của thế giới, họ đã được huấn luyện để tin tưởng như thế. Giống như Stoic cổ xưa, ông đề cao quyền lợi của nhân loại lên trên quyền lợi của gia tộc và quốc gia. Họ đều như Diderot, tự cho họ là công dân của đô thị vĩ đại trên thế giới.
Rousseau thì cho ông là một nhà ái quốc. Riêng Wieland thì cho rằng, để có một lý tưởng cao thượng, chỉ có con người của thế giới mới có thể là một công dân tốt. Và chỉ có họ mới xứng đáng được gọi: "NHỮNG CON NGƯỜI ĐÃ LỚN DẬY, SOI SÁNG VÀ TẠO DỰNG NHỮNG NGƯỜI CAO THƯỢNG KHẢ KÍNH CHO TẤT CẢ NHÂN LOẠI .
Triết gia là một mẫu mực điển hình đã được nuôi trồng và uốn nắn để thành các học giả khả kính và các nhà khoa học amateurs. Bên cạnh họ còn một đám trí thức hàn lâm như Kant, Lichteaburg, Adam Smith, hoặc những con người của văn chương như Diderot, Lessing và Galiani, đó là những người có học thức lớn lao của các giáo sư đại học.
Franklin, D' Alembert, Maupertuis, Lichteuburg và Bufton khởi đầu là những khoa học gia trước khi được coi là triết gia. Những người khác như Voltaire, người đã nắm lấy chính nghĩa văn minh khoa học.Với tài năng, ông đã làm cho những khám phá của Newton trở nên nổi tiếng lừng lẫy. Họ cư ngụ tại các đô thị nổi tiếng, Franklin ở Philadelphia, Rousseau ở Geneve, Beccaria ở Milan, Dederot ở Paris hoặc Gibbon của Roma.
THỜI ĐẠI ÁNH SÁNG ĐƯỢC COI NHỮNG HOẠT ĐỘNG SAU CÙNG CỦA THỜI PHỤC HƯNG. Thời đại Ánh Sáng có sự hợp tác liên tục của ba thế hệ, kéo dài khoảng 100 năm tức là suốt thế kỷ 18. Với thế hệ đầu tiên được thống trị bởi Montesquieu, sau đó là đến Voltaire; họ đã lớn dậy khi các tác phẩm của John Locke và Newton còn quá mới mẻ và vẫn còn nhiều tranh cãi, và phần lớn đã hoàn thành trước 1750. Thế hệ thứ hai đạt đến sự chín chắn trưởng thành vào giữa thế kỷ 18. Franklin sinh ra vào 1706, Buffalo 1707, Hume 1711, Helvetius vào 1715, và D' Alembert vào 1717. Tất cả những cây viết này đã làm bùng nổ, chuyển ánh lửa cho khuyng hướng chống giáo sĩ và những suy tư khoa học của thế hệ đầu. Thế hệ thứ ba, thế hệ của Thomas Hobbes và Beccaria, của Lesing, của Jefferson, của Wieland, Kant và Turgot. Khuynh hướng và trào lưu này đã chuyển từ sự bí mật của khoa học, siêu hình học, vật lý, kinh tế, chính trị, cải cách pháp lý, và thực hành chính trị.
SỰ HIẾN DÂNG CHO KHOA HỌC VÀ THÁI ĐỘ THÙ HẰN VỚI TÔN GIÁO LÀ ĐẶC TÍNH CỦA THỜI ĐẠI ÁNH SÁNG. David Hume nhìn Giáo Hội bằng cặp mắt khinh bỉ: "ĐÓ LÀ VƯƠNG QUỐC CỦA SỰ NGU XUẨN VÀ VƯƠNG QUỐC CỦA SỰ VÔ MINH." Theo Peter Gay, một trong những sự kiện xã hội nổi bật nhất vào thế kỷ 18, là một món quà vô giá do xu hướng ánh sáng đem đến cho các triết gia thời đại -- ĐÓ LÀ CUỘC XÂM LĂNG VŨ BÃO CỦA CÁC TRIẾT GIA VÔ THẦN VÀO THÀNH TRÌ THẦN HỌC CỦA KITÔ GIÁO. Những linh mục dòng tên đã chia sẻ những khám phá mới bằng cách lắng nghe các tư tưởng của các nhà khoa học. Những người Cơ Đốc giáo thì ném cái nhìn nghi hoặc về nền tảng đức tin về phép lạ, và bằng một thứ thần học hiện đại. Các giáo sĩ đứng lên khắp nơi để chống lại các triết gia.
SỰ BỘI PHẢN NÀY CỦA GIỚI TU SĨ ĐÃ THẤM NHUẦN QUAN ĐIỂM THẾ TỤC ĐỂ CHẠY THEO THỜI ĐẠI CHỐNG LẠI ĐỨC TIN. Các triết gia đồng thời khám phá ra rằng bạn bè của họ bị ảnh hưởng lôi kéo rất đông. Một ông vua đã nỗ lực truất bỏ đặc quyền tài chánh cho giới tu sĩ; một bá tước bị trục xuất khỏi dòng tên, một nhà kiểm duyệt trố mắt tán trợ khuynh hướng tôn thờ vật chất.
Từ những phát minh của cách mạng khoa học, tâm lý học, kinh tế học, các tư tưởng xã hội, giáo dục và chính trị. Chính những người Kitô giáo xưa kia đã từng sùng đạo đã tán trợ tiếp tay cho tình trạng nguy hiểm này của thời đại Ánh Sáng. Đó là những khuôn mặt như Haller, Euler, Harly và Priestly. Khắp nơi như các trường học, các nhà thương, đã hỗ trợ làn sóng mới để hỗ trợ cho chính nghĩa "nhân đạo" của thời đại, tất cả cùng đứng lên chống lại tôn giáo mà họ cho là mê tín dị đoan để ồn ào tuyên dương thời đại.
Các triết gia và tư tưởng gia vô thần tấn kích hung hãn vào những dòng thi ca hữu thần của Dante. Họ lên án các cơ cấu phong kiến, rồi dẫn đến sự từ khước các học giả và các nhà siêu hình học là gia sản quý báu nhất của nhóm trí thức vô thần của thế kỷ 18. Thời đại đã tạo ra một lực lượng vô cùng hùng hậu không còn niềm tin tôn giáo, và vô thần, kéo theo họ số đông nhẹ dạ lũ lượt chạy theo sau.
Tất cả các nơi đều có chững nhà cải cách trong thời đại của Ánh Sáng. Lãnh tụ của Scottish là David Hume, Adam Smith, Adam Ferguson, William Roberton, và Lord Home, họ là những nhà kinh tế, chính trị, các nhà mỹ học, các sử gia, các triết gia và tất cả triết lý đã được thảo luận liên tục ngày đêm tại các thư viện, các hội quán, các tiệm cafe. Khi các nơi đó đã đóng cửa thì họ kéo nhau vào quán rượu. Các cuộc tranh cãi kéo dài bất tận trong nội bộ của các thành phần triết gia - CUỐI CÙNG LÀ PHE DUY VẬT VÔ THẦN ĐÃ TOÀN THẮNG.
Lằn ranh của các trận tấn công đã được vẽ xuống một sự phân chia rõ rệt giữa một thế giới hoàn phàm tục mà các triết gia muốn xây dựng và thế giới còn lại là tôn giáo, một thế giới mà con người không thể nào thỏa hiệp được. Các triết gia bám chặt vào nền văn minh bái vật của họ (Idolatrous civilization) (chữ của Peter Gay). Duyệt xét lại lịch sử của thời đại Ánh Sáng, tác giả cuốn "The Enlightenment" cho rằng: "HÀNH ĐỘNG QUÁ ĐÁNG BIẾN HỌ THÀNH NHỮNG NGƯỜI TRÍ THỨC BẤT LƯƠNG" (intellectual dishonest).
Thật quá rõ ràng các triết gia đã dấn bước lầm lạc trước trào lưu và những hậu quả tai hại do các luồng tư tưởng của họ đưa ra. Voltaire đã đọc khế ước xã hội của Rousseau và Diderot đã đọc Emile của Rousseau. Tại đây là HAI NGƯỜI THÔNG MINH NHẤT CỦA THẾ KỶ đối mặt nhau với hai tác phẩm có tính cách tiên tri, đó là những cuốn sách đã được tung ra khắp thế giới và các tư tưởng của các triết gia đã được đón nhận, từ đó đưa họ đến chỗ tự nhận đây "cuộc cách mạng trí thức (intellectual revolution), đưa thời kỳ Ánh Sáng đến thời điểm là XÓA BỎ ĐẲNG CẤP CŨNG NHƯ XÓA BỎ LUÔN THIÊN CHÚA."
Những con người sống trong thời đại tự do, các triết gia rất yêu thích tìm kiếm các giá trị thượng cổ. Họ như các nhà cải cách, họ không ngần ngại khai thác những giá trị cổ xưa mà họ yêu thích - các triết gia chia quá khứ thành hai phần; một phần họ rất thích và phần còn lại là Kitô giáo thì họ rất thù ghét. HỌ TUYÊN BỐ RẰNG HỌ CÓ NHIỆM VỤ ĐỂ XÓA TAN ĐI SỰ HẸP HÒI VÀ MÊ TÍN DỊ ĐOAN, ĐÓ LÀ NHIỆM VỤ LỊCH SỬ CỦA HỌ. HỌ NHÌN VÀO CÁC TÀI LIỆU LỊCH SỬ CỦA KITÔ GIÁO VÀ CHO RẰNG THỜI ĐẠI CỦA HỌ, CẦN CÓ SỰ SỬA SAI, BỞI VÌ TÔN GIÁO QUÁ KHÍCH. Họ tâng bốc hết lời Newton và các nhà phát minh ra khoa học.
Các triết gia tự cho họ cái quyền để tiếp nối các cuộc tranh đấu trong lịch sử giữa lý trí và phi lý trí. Trận chiến đã mất trong quá khứ và ngày nay cần tiếp nối để đưa đến sự thành công. Những viết lách lịch sử không chỉ đưa đến sự phản bác, mà dậy con người sự hiểu biết. Họ cho rằng HỌ MỚI LÀ LỊCH SỬ CHÂN CHÍNH. Với những đam mê lịch sử, nhưng họ nhìn quá khứ quá tồi tệ. LỊCH SỬ GHI LẠI CHỈ LÀ TỘI ÁC VÀ GIAN TRÁ. DIDEROT GỌI TÔN GIÁO LÀ NHỮNG KẺ ĐỘC TÀI MÊ TÍN (supertition tyrants). David Hume trong cái nhìn tổng quát, BỌN MAN RỢ VÀ TÔN GIÁO ĐÃ THỐNG TRỊ QUÁ KHỨ.
Thời đại của Ánh Sáng đã nhìn thấy một thế giới luôn luôn đưa ra giữa những kẻ quên mình, và những kẻ thù mê tín bằng xương bằng thịt, và những con người đã quyết đoán trong cuộc sống, với một hệ thống kiến thức và tấm lòng bao dung, giữa những người tạo ra sự thần bí âm u và những con người thực tế, thực tiễn, và giữa giáo sĩ và triết gia.
Peter Gay đưa ra nhận xét: sự xung đột này giữa những cách sống không thể hòa hợp, hòa giải với nhau được về quan niệm cuộc sống, về tư tưởng và lối cảm nhận. Mỗi thời đại có lối thống trị khác nhau, hoặc lý trí, hay mê tín dị đoan, nhưng các triết gia nhấn mạnh rằng sự thống trị này thực ra chỉ tạm thời, Có những chu kỳ có sự pha trộn giữa lý trí và mê tín và làm cho bóng tối vây phủ. Trong những thời đại cuồng loạn nhất có các triết gia thời đại, đó là những thời đại rực rỡ của lý trí và sự tự do nhưng rồi bị nhiễm độc bởi sự vương vất của sự già cỗi tàn tạ, hoặc là những hạt mầm của mê tín dị đoan. Vì thế Voltaire mới nói: "THỜI ĐẠI CỦA ÔNG LÀ THỜI ĐẠI CỦA CÁC TRIẾT LÝ," và cũng là "THỜI ĐẠI CỦA MÊ TÍN DỊ ĐOAN" của thế kỷ 18.
Kant cho rằng đây là SỰ XUNG ĐỘT GIỮA TƯ TƯỞNG CỦA HY LẠP VÀ LA MÃ và LÀ NGUỒN GỐC CỦA THẢM HỌA VÀ TIẾN BỘ. Quan niệm lịch sử của thời Ánh Sáng được mô tả như một cuộc chiến đấu liên tục giữa hai đối cực tinh thần. Các triết gia đã chia quá khứ thành bốn chu kỳ lớn gồm có những dòng văn minh CẬN ĐÔNG, CỔ ĐẠI HY LẠP, VÀ ROMA, VÀ HAI NGÀN NĂM KITÔ GIÁO. Bốn chu kỳ này đều có liên quan với nhau. Thời đầu tiên và thời thứ ba là những thời đại của thần bí của tín ngưỡng và của mê tín dị đoan, Trong lúc thời kỳ thứ hai và thứ tư là những thời đại của lý trí, khoa học và ánh sáng.
Họ cũng kêu gọi chú tâm tới sự phát triển trí tuệ của các nền văn minh Đông Phương với các nhà hiền triết Đông Phương (Oriental Sagacity) như Ấn Độ và Trung Hoa. Các triết gia viết về sự phát triển trí tuệ của con người, đó là sự chỗi dậy từ huyền thoại khi tìm về với thế giới thượng cổ mà con người đang sống với tất cả thảm họa dưới sự suy tàn bại vong của Kitô giáo, và chờ ngày vinh quang của sự tái sinh .
Hume đã viết, "ÂU CHÂU LẠI RƠI VÀO THỜI KỲ MAN RỢ NHƯ THỦA BAN ĐẦU, NHƯNG CON NGƯỜI ÂU CHÂU NGÀY NAY QUÁ SÁNG SUỐT, HỌ ĐÃ TỪNG SỐNG NHIỀU THẾ KỶ QUA TRONG VÒNG SỰ NGU DỐT TĂM TỐI QUÁ LÂU." D' Alemberg thì có giọng "văn chương tái tạo" xuất hiện tự trong lòng của sự ngu dốt, sáng tạo nên những tư tưởng mới trở về với tý trí với những hương vị tuyệt vời, "phục hoạt lại những giá trị tinh thần" và làm cho cuộc đời bừng dậy một ánh sáng -- tất cả đang chờ đợi cái giây phút khi một ánh sáng mới sẽ được khơi dậy để làm cho thế giới này sống lại trong một nền văn minh của tự do.
Nhưng Hegel đã viết ra một số trang rất chín chắn trong cuốn Phenomenology của ông, ông phê phán các triết gia: "CHỈ THẤY XUẤT HIỆN TRÊN BỀ MẶT MỘT HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG ĐỂ TỪ ĐÓ BƯỚC VÀO NHỮNG XUNG ĐỘT VỚI TÍN NGƯỠNG." Thời đại Ánh Sáng đã cư xử đối đãi với tôn giáo như một thứ mê tín tối tăm và lầm lạc trong việc tổ chức. SỰ THỜ LẠY CỦA DÂN ĐƯỢC CHỌN VÀ CHỈ BIẾT NHẮM VÀO SỰ PHỤC TÙNG CÁC THÁNH NHÂN. Những điều như thế chỉ có thể VƯỢT QUA BẰNG BẠO LỰC. Peter Gay đã ghi nhận rằng, CÁC HỌC GIẢ CÓ THỂ NHÌN NGÀN NĂM CỦA KITÔ GIÁO MỘT CÁCH CÔNG BÌNH CHỈ KHI NÀO NHỮNG CON NGƯỜI CHÊ BAI CHỈ TRÍCH ĐÃ GIẢI THOÁT ĐƯỢC CHÍNH HỌ TỪ CÁI NHÌN NHIỀU THIÊN KIẾN BẤT CÔNG CỦA HỌ.
Peter Gay còn khám phá thấy, các triết gia thời đại đã vượt cả lịch sử biên niên, tra cứu không ngừng các tài liệu thiêng liêng, và đã áp đặt tính cách duy lý trí trên đó, với những phương pháp khi nghiên cứu về xã hội chính trị, và những phát triển trí thức; điều rất nghịch lý là ngay các sử gia thời đại Ánh Sáng, các nhà duy lý trí sống với cảm tính rất nhiều, bám chặt vào mục tiêu của họ, rất cẩu thả về những chi tiết, hấp tấp phê phán gán ghép một cách bất công một tính chất nào đó, thiếu hẳn sự cảm thông, mất hết lý trí, đầy óc bè phái, tồi tệ xấu xa khi đi khám phá các giá trị của lịch sử.
Bởi vì tất cả những phán xét sai lầm và với tất cả thành kiến. Điều đòi hỏi ở nơi họ - khi họ đã bước qua những bước đầu, là giá trị gì để làm nền tảng và mẫu mực khi họ muốn nghiên cứu về lịch sử một cách khoa học. TẤT CẢ ĐỀU ĐI QUÁ ĐÀ VÌ THIẾU PHƯƠNG PHÁP VÀ QUAN NIỆM CHÍN CHẮN KHI PHÊ BÌNH, CHỈ TRÍCH VÀ NGHIÊN CỨU.
Ý NGHĨA VÀ TINH THẦN
Những con người tạo ra thời kỳ Ánh Sáng vượt lên trên tất cả người khác trong thời đại của họ. Những dòng văn chương cổ xưa vào thời Ánh Sáng do tầng lớp trí thức mới có được. Những nghiên cứu học hỏi của họ vào thời xa xưa mang nhiều đặc tính chính trị. Samuel đã nói về những dòng văn chương của nền cộng hòa cổ xưa như một chứng minh cụ thể về một cộng đồng của trí tuệ Với những trích dẫn của thời cổ xưa, ông nói, "đó là vai trò của người trí thức trên khắp thế giới."
Voltaire nhấn mạnh trong cuốn sách viết về nước Anh với những thành viên trong nghị viện, đã thích thú so sánh với chính họ như những người CỘNG HÒA CỦA LA MÃ. D' Argenson cho rằng: "những người Anh đã cho rằng họ đã nắm được cấu trúc của chính quyền La Mã với tất cả những gì tốt đẹp nhất và đã điều chỉnh lại những lỗi lầm" , nhưng theo Peter Gay, họ đã bỏ mất quan niệm của Stoic về sự hòa đồng hợp nhất của thế giới. Và vì không có niềm tin tôn giáo nên đã loại thần học Kitô giáo ra khỏi tín ngưỡng của họ. Vì thế Voltaire mới riễu cợt Cơ Đốc Giáo: "tư tưởng lạ lùng quá, phải cho vào một nồi nước để rửa sạch mọi tội lỗi - phải tẩy rửa như giặt quần áo vậy."
Các triết gia đọc Socrates, Plato, Zeno và muốn vượt qua tất cả, Trong lúc họ muốn tổng hợp minh triết và văn minh của Hy Lạp. Họ kêu gọi tìm về với thượng cổ để tìm kiếm khuôn vàng thước ngọc. Họ tôn thờ mẫu người thủa xưa khi nhìn vào đời sống của Caesar, Brutus, Pelopidas và Crato như những mẫu mực của La Mã, Diderot cho Socrates và Seneca là lương tâm của đám đông, Holbach khi viết về Seneca đã không hề chú ý tới đạo đức của Seneca. Riêng người tuổi trẻ Holbach đã nói với bạn ông. "tôi đi săn, đi câu cá, đi bắn, tôi bước đi suốt ngày mà vẫn không quên chuyện trò, đối thoại với Horace, Vergil, Homer và tất cả các bạn bè cao thượng họ". Cuối đời Holbach đi tuyên truyền cho chủ nghĩa vô thần và duy vật.
SỰ TÌM KIẾM VỀ NGOẠI GIÁO
Đối với phần lớn các triết gia, sự khám phá các giá trị của tổ tiên không khó khăn gì. Họ có những câu hỏi đầy xao xuyến về con người hiện sinh (existentialists).
"Tại sao mọi sự lại hiện hữu?"
Kinh nghiệm biện chứng của họ - dính liền với niềm tôn kính thủa xưa, và thù ghét Kitô giáo. Và sự xuất đầu lộ diện của thời hiện đại được định nghĩa về cơn khủng hoảng lớn lao về căn tính của con người. Sau chót phần lớn các cuộc tấn công dữ dội của họ được rêu rao trong thời đại Ánh Sáng đã được điều hướng để chống lại Kitô giáo; chống Kitô giáo trong tất cả mọi phương diện, chống lại các cơ cấu tôn giáo, đạo đức Kitô giáo, và chống cả quan điểm của Kitô giáo về con người, nhưng chính các triết gia đã từng sinh ra từ thế giới Kitô giáo và vẫn giữ mối liên lạc với các bạn bè Kitô giáo. Đó là điều không thể tránh những xung đột họ muốn tạo ra những điều mới mẻ.
Peter Gay cho rằng gia sản Kitô giáo nhiều khi vẫn lá sức nặng đè trên đời sống của họ, Kitô giáo đã bao trùm thống ngự cả tuổi thơ của họ, những dậy dỗ uốn nắn của Kitô giáo nhiều năm đã thành những ấn dấu, được củng cố với những lời cảnh báo và những hứa hẹn. KITÔ GIÁO KHÔNG NẮM GIỮ ĐƯỢC TÀI NĂNG TRÍ THỨC CỦA HỌ nhưng vẫn thường xuyên ám ảnh họ. Khi họ quay ra để chống tôn giáo họ đã làm như vậy không phải vì sự ngu dốt.
Herman Samuel Reimarus đã từng cảm thấy đau đớn bởi KHÔNG THỂ NÀO HÒA GIẢI ĐƯỢC SỰ MÂU THUẪN GIỮA NHỮNG LẬP LUẬN CỦA LÝ TRÍ VÀ NHỮNG ĐÒI HỎI CỦA ĐỨC TIN.
Nếu Thiên Chúa muốn dậy nhân loại qua cuốn Thánh Kinh, tại sao Thiên Chúa lại làm cho nó tăm tối như thế?
Nếu thực sự Thiên Chúa là Một trong Ba Ngôi, làm sao có thể thế được; Reimarus không bao giờ tưởng tượng được Ba Ngôi trong một hình ảnh gắn liền với nhau.
Nếu tất cả những ai bị trừng phạt, bị trừng phạt muôn đời, tại sao Kitô giáo lại đòi hỏi sự dâng hiến để nghĩ về họ như Thiên Chúa của tình yêu, và Chúa Jesus là người mang đến sự chuộc tội?
Làm sao Thiên Chúa có thể chọn dân Do Thái đứng trên các quốc gia khác, khi họ chẳng xứng đáng, quá bướng bỉnh với tội lỗi của họ.
Diderot, một tinh thần phát minh nhất, đã đi từ vị trí này qua vị trí khác và nỗi nghi ngờ lúc nào cũng quấy nhiễu ông. Ông sinh từ một gia đình đã cung cấp cho Giáo Hội nhiều tu sĩ, cha mẹ là người sùng đạo, cùng với các anh em sùng tín. Khi ông chấp nhận cái đẹp của vô thần, rồi thần luận Hy Lạp, bước qua chủ nghĩa hoài nghi, và cuối cùng dừng bước với cá nhân chủ nghĩa vô thần (individualistic a theism).
David Hume thì nói: "khi tôi quay cái nhìn vào bên trong tôi (tức thế giới nội tâm), tôi chẳng thấy gì cả và chỉ thấy hoài nghi và tăm tối.
BƯỚC ĐẦU TIÊN CỦA ÁNH SÁNG
Đối với các triết gia, thời cổ đại Hy Lạo, theo họ là những con người đầu tiên đã giải phóng con người thoát khỏi sự độc đoán của huyền thoại, và được thở ra nhẹ nhàng với bầu không khí của lý trí, để cạnh tranh với toán học của Babylon và thần học Do Thái. Vào thế kỷ 18, khi các triết gia đã hoàn tất xong chủ đề lịch sử, họ đã tuyên bố với sự liên hệ ruột thịt với thế giới cổ đại đó, họ đã đạt được sự tiến bộ và chống lại thật sâu xa với tinh thần Kitô giáo. Sự đề cao tâng bốc về Hy Lạp đã đi ngược lại với truyền thống Kitô giáo.
Từ đó đã chuyển đổi sự chú tâm của con người từ Do Thái qua tới Hy Lạp. Họ đã làm cho những người Hy Lạp bước đến vị trí thành cha đẻ ra một nền văn minh chân chính và là tổ phụ của thời đại Ánh Sáng. Từ đó đã làm lộn nhào nền móng lịch sử do Kitô giáo để lại bằng cách nhìn con người trong quá khứ như một con người phàm tục, không có gì thiêng liêng. Bước khởi nguyên của Hy Lạp có nghĩa là bắt đầu của triết lý, và triết lý đó đã làm cho tôn giáo thành vô nghĩa, vì triết lý biết ưu tư về con người.
Diderot đã hết lời tán tụng tâng bốc Thales như là người sáng tạo ra phương pháp khoa học trong triết lý. Những người kế tiếp Thales đã mở rộng phạm vi tìm kiếm với tất cả ưu tư về con người. Và những dòng suy tư đó được gom góp lại thành một kiến thức lớn lao. Đó là những con người đã đem đến để cống hiến văn minh cho nhân loại với bao sự biết ơn của hậu thế.
Hy Lạp là nơi đầu tiên đến với môn học là luận lý và những quan niệm trần tục để chỉ trích lịch sử, và những tâm tư bấn loạn đã dẫn đến việc xử dụng lý trí để nghiên cứu về con người thiên nhiên. Các triết gia Hy Lạp rút luân lý đạo đức trừ giá trị căn bản nơi con người hơn là từ Thiên Chúa. Hume thì cho rằng đó là "sự chỗi dậy của khoa học Hy Lạp." Với Abbe Y Von thì đã giải thích trong bách khoa là những người Hy Lạp đã phát minh ra triết lý và triết lý thách đố với tất cả mọi loại quyền hành, và tìm kiếm chân lý.
(còn tiếp...)
http://www.tiengnoigiaodan.net/anews/0805_127.html
(Bài số I)
http://www.tiengnoigiaodan.net/anews/0805_127.html
(Bài số II)
http://www.tiengnoigiaodan.net/anews/0806_067.html
(Bài số III)
http://www.tiengnoigiaodan.net/anews/0807_020.html
GIÁO HỘI TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA VÀ THÂN PHẬN CON NGƯỜI TRONG CÁC CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI (Bài số IV)
http://www.tiengnoigiaodan.net/anews08/0808_241.html
Giáo Hội và chính trị - NGUYỄN CHÍNH KẾT
Friday, August 29, 2008
CHO DÂN TRỰC TIẾP BẦU CHỦ TỊCH XÃ TRÒ LỪA MỚI CỦA VIỆT CỘNG
LÝ ĐẠI NGUYÊN
Trên trang Chính Trị Xã Hội trong báo Người Lao Động của Việtcộng, đề ngày 24-08-2008, đăng bài của tác giả Thái An với đề tài: “Thí điểm bầu trực tiếp Chủ Tịch Xã từ năm 2009. Bước Đột Phá Để Mở Rộng Dân Chủ Cơ Sở. Đề án thí điểm không tổ chức HĐND cấp quận , huyện, phường và thí điểm nhân dân bầu trực tiếp chủ tịch UBND xã đang được Bộ Nội Vụ soạn thảo, để thực hiện thí điểm từ năm 2009, sau khi HĐND các cấp nhiệm kỳ 2004-2009 kết thúc. Đề án thực sự là bước đột phá trong đổi mới tư duy, tầm nhìn, hành động và là bước tiến lớn trong việc mở rộng và phát huy dân chủ ở cơ sở”. Theo cơ chế của nhà nước Việtcộng hiện nay, thì các cấp tỉnh, quận, huyện, phường, xã đều có Hội Đồng Nhân Dân để bầu ra và kiểm soát chủ tịch và Ủy Ban Nhân Dân. Nhưng đứng trên đầu 2 cơ chế này là Đảng Ủy và Viên Bí Thư đầy quyền lực, ở mọi cấp, mà vô trách nhiệm về mặt hành chánh và luật pháp nhà nước.
Đây là cái gốc của việc lạm quyền, tham nhũng, hà hiếp, đàn áp, bóc lội người dân lành Việtnam khốn khổ. Cảnh Dân Oan hiện nay, đểu do đơn vị hành chánh cấp xã thực hiện theo chỉ thị từ thượng cấp. Chính vì vậy, mà lâu nay, các nước như Thụy Điển có thiện chí, muốn cố vấn và tài trợ cho Việtcộng cải tổ hệ thống hành chánh trì trệ, thối nát, tùy tiện, thảy đều bất lực, đành chào thua. Nay, Việtcộng muốn làm một bước đột phá cho dân bầu trực tiếp người điều hành cơ sở gốc của Quốc Gia là vị đứng đầu xã, và guồng máy hành chánh Làng Xã ở nông thôn và Thị Xã ở đô thị. Giống như ỏ Hoakỳ và các nước Dân Chủ thành nếp sống lâu đời. Chính nơi đây, người dân mới ý thức và cảm nhận được quyền làm chủ xã hội và đất nước của mình. Mình thực sự biết rõ để chọn ra và kiểm soát những người điều hành Làng Xã, Thị Xã để đề ra những công việc cụ thể do nhu cầu của dân địa phương, và thực hiện luật lệ cũng như các chính sách nhà nước một cách nghiêm minh, nhằm phục vụ quyền lợi cả tinh thần, lẫn vật chất cho chính người dân, chứ không vì quyền lợi của kẻ thống trị, đảng phái cầm quyền, hoặc tôn giáo toàn thống. Đây mới là nền Dân Chủ Trực Tiếp, từ đó ý thức dân chủ trưởng thành để người dân đủ trình độ sáng suốt chọn bầu ra các thành phần lãnh đạo quốc gia. Đây là đường hướng xây dựng thể chế dân chủ đi từ gốc lên trên. Còn các cuộc gọi là cách mạng thì ưu tiên đoạt chính quyền trung ương, rồi mới thực hiện các lý tưởng này, nọ, hoặc thi hành xây dựng dân chủ. Tức là đi từ ngọn xuống, nên thường thì chẳng bao giờ tới được gốc, vì dễ rơi vào thế chuyên chế. Riêng với chủ trương của Quốc Tế Cộng Sản thì họ tự nhận họ thuộc chế độ Vô Sản Chuyên Chính. Họ chỉ vì quyền lợi của Nhân Dân Lao Động, không vì lợi ích của Người Dân Mỗi Nước. Đó là trên lý thuyết, còn thực tế, khi Cộngđảng cướp được chính quyền ở Nga. ở Tầu, ở Việt… thì những lãnh tụ trở thành Vị Vua cực quyền. Đảng trở thành Giai Cấp Thống Trị, Nhân Dân Lao Động và Toàn Dân đều trở thành những tên Nô Lệ Khổ Sai, Trí Thức bị hèn hóa chỉ biết phục vụ cho ý muốn hoang tưởng và quyền lợi của lãnh tụ và cộngđảng. Đó là nguyên nhân nội tại, tương tác với duyên ngoại lai của chiến lược Mỹ, tạo ra cảnh huynh đệ tương tàn, làm cho Quốc Tế Cộng Sản sụp đổ.
Cộngsản Tầu, Cộngsản Việt tuy đã đầu hàng Tưbản, nhưng không dám thực hiện dân chủ đúng nghĩa, chỉ muốn đổi từ cộng sản bao cấp thành tư bản bóc lột, để được nhận vào kinh tế thị trường. Vì muốn có những thị trường nhân dụng rẻ tiền, nên tư bản các nước kỹ nghệ cũng hăm hở đổ vốn đầu tư vào làm ăn, và mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa cho hàng của Tầu, Việt nhập cảng. Thế nhưng vì lợi nhuận lâu dài của giới tư bản và vị thế chiến lược của Mỹ và các cường quốc Dân Chủ, họ vẫn dùng áp lực Nhân Quyền để buộc các nước còn duy trì cơ chế độc đảng độc tài như Tầucộng, Việtcộng phải tuân thủ những đòi hỏi thực tế của họ. Đồng thời từng bước phải thay đổi chế độ và luật pháp cho hợp với nhu cầu kinh tế thị trường toàn cầu hóa. Vì nguyên tắc phát triển của kinh tê thị trường là phải Dân Chủ Hóa Chế Độ. Có như vậy người dân ở các nước Dân Chủ Tự Do mới trở thành khách hàng tiêu thụ sản phẩm của kỹ nghệ tư bản, và những Quốc Gia đó mới đủ khả năng tài chánh để trang bị kỹ thuật cao của Mỹ trong sản xuất và phòng thủ đất nước. Chính vì vậy mà mấy năm gần đây. Hoakỳ đã tài trợ cho Tầucộng tổ chức bầu cử trực tiếp tại một số thí điểm Xã Ấp. Nhưng Tầucộng đã lươn lẹo, không cho bầu cử trực tìếp ở đơn vị Hành Chánh Gốc là Xã, mà chỉ cho bầu các Trưởng Thôn, Trưởng Ấp. Xã vẫn nằm trong hệ thống tham nhũng của các cấp ủy đảng. Bởi vậy các Trưởng Thôn, Trưởng Ấp do dân bầu mới vì quyền lợi của dân, tổ chức các cuộc biểu tình đòi quyền sống, mà mỗi năm có tới hàng Trăm Ngàn vụ xẩy ra ở Trungcộng.
Nay Việtcộng đi xa hơn Tầucộng một bước, là dự định cho dân bầu trực tiếp Chủ Tịch Xã, người cầm đầu Ủy Ban Nhân Dân Xã. Tức là đơn vị Hành Chánh Gốc của Nhà Nước. Định bỏ các Hội Đồng Nhân Dân Xã, Phường, Huyện, Quận, mà chỉ tăng cường thành phần HĐND tỉnh, và thành phố trực thuộc Trung Ương. Nhưng xem ra Cộngđảng vẩn duy trì thứ Đảng Ủy và Viên Bí Thư Xã để nắm đầu Chủ Tịch Xã và Ủy Ban Nhân Dân Xã. Rồi trao cho Mặt Trận Tổ Quốc đứng ra tổ chức bầu cử theo công thức bầu bán lạc hậu “Đảng Cử Dân Bầu”. Như vậy dù dân có bầu ra Chủ Tịch Xã thì vẫn bị thứ cơ chế Đảng Lãnh Đạo, Nhà Nước Quản Lý và Dân vẫn Làm Mọi như xưa. Đây là một trò bịp lớn, không chỉ bịp toàn dân Việt, mà bịp luôn cả Mỹ, bịp toàn thể dư luận quốc tế.
Việc Người Dân trong Xã trực tiếp bầu Xã Trưởng và 4 hoặc 6 Nghị Viên Xã để quyết định đường lối và điều khiển hệ thống hành chánh xã là đúng với nhu cầu, và đòi hỏi của Nền Dân Chủ Trực Tiếp, mang tính thời đại. Lại rất hợp với truyền thống Dân Tộc đã có từ ngàn xưa. Đây là nguyên tắc “Phép Vua Thua Lệ Làng” trong hành trình bảo vệ tinh thần độc lập của Dân Tộc trước sức khống chế của các Đế Quốc, bắt Vua ta phải xưng thần, triều cống và nghe lệnh. Vì biết cách tổ chức đơn vị Làng Xã Tự Quản, nên thời bình dù Vua có bị xưng thần, thì dân vẫn nuôi được tinh thần Độc Lâp, thời chiến Làng Xã là đồn lũy chiến đấu trường kỳ. Dân Tộc Việt nhờ đó mới thoát khỏi một ngàn năm bị người Tầu đồng hóa, và một trăm năm bị Thực Dân Pháp cải hóa. Nhưng rồi chính Hồ Chí Minh và Việtcộng đã tiêu diệt tận gốc rễ hệ thống Làng Xã Tự Quản, qua việc nhận lệnh Nga, Tầucộng thực hiện Cải Cách Ruộng Đất. Rồi cấy vào đó thứ “Chi Bộ Cộng Sản Xã”. Sau đó Việtcộng theo Nga thì bắt toàn dân phải thờ Nga, theo Tầu thì buộc toàn dân nô lệ Tầu. Nay, Việtcộng nếu muốn chuộc trọng tội đó với Dân Tôc và Toàn Dân thì nên khởi sự bằng việc tự hủy bỏ hệ thống Đảng Ủy tại Làng Xã, Thị Xã. Nghiêm chỉnh tổ chức một cuộc bầu cử thật sự tự do, công bằng, vô tư, trong sáng. Trao cho thành phần dân sự ngoài đảng, chính quyền và MTTQ, đứng ra tổ chức bầu cử tại Làng Xã, Thị Xã. Tập thể có nhân sự và khả năng làm việc đó ở Việtnam hiện nay là các Trường Đại Học. Vì sinh viên chỉ trong ngắn ngày là có thể học hiểu luật, phương pháp vận động, tổ chức bầu cử. Rồi từng nhóm trên mươi người do một Giáo Sư hướng đẫn về từng Làng Xã, Thị Xã tiến hành bầu cử. Chỉ có thế người dân mới tin tưởng, người được bầu ra mới thấy mình không bị thượng cấp ban ơn và lệ thuộc họ. Lúc đó chỉ biết có quyền lợi của dân và pháp luật của Quốc Gia Dân Chủ.
Little Saigon ngày 26-08-2008.
---------
- - Âm mưu sách lược của csvn đ/v phong trào dân chủ hiện nay : tiêu hủy tinh thần dân tộc Việt !! - 31/8/08
Trên trang Chính Trị Xã Hội trong báo Người Lao Động của Việtcộng, đề ngày 24-08-2008, đăng bài của tác giả Thái An với đề tài: “Thí điểm bầu trực tiếp Chủ Tịch Xã từ năm 2009. Bước Đột Phá Để Mở Rộng Dân Chủ Cơ Sở. Đề án thí điểm không tổ chức HĐND cấp quận , huyện, phường và thí điểm nhân dân bầu trực tiếp chủ tịch UBND xã đang được Bộ Nội Vụ soạn thảo, để thực hiện thí điểm từ năm 2009, sau khi HĐND các cấp nhiệm kỳ 2004-2009 kết thúc. Đề án thực sự là bước đột phá trong đổi mới tư duy, tầm nhìn, hành động và là bước tiến lớn trong việc mở rộng và phát huy dân chủ ở cơ sở”. Theo cơ chế của nhà nước Việtcộng hiện nay, thì các cấp tỉnh, quận, huyện, phường, xã đều có Hội Đồng Nhân Dân để bầu ra và kiểm soát chủ tịch và Ủy Ban Nhân Dân. Nhưng đứng trên đầu 2 cơ chế này là Đảng Ủy và Viên Bí Thư đầy quyền lực, ở mọi cấp, mà vô trách nhiệm về mặt hành chánh và luật pháp nhà nước.
Đây là cái gốc của việc lạm quyền, tham nhũng, hà hiếp, đàn áp, bóc lội người dân lành Việtnam khốn khổ. Cảnh Dân Oan hiện nay, đểu do đơn vị hành chánh cấp xã thực hiện theo chỉ thị từ thượng cấp. Chính vì vậy, mà lâu nay, các nước như Thụy Điển có thiện chí, muốn cố vấn và tài trợ cho Việtcộng cải tổ hệ thống hành chánh trì trệ, thối nát, tùy tiện, thảy đều bất lực, đành chào thua. Nay, Việtcộng muốn làm một bước đột phá cho dân bầu trực tiếp người điều hành cơ sở gốc của Quốc Gia là vị đứng đầu xã, và guồng máy hành chánh Làng Xã ở nông thôn và Thị Xã ở đô thị. Giống như ỏ Hoakỳ và các nước Dân Chủ thành nếp sống lâu đời. Chính nơi đây, người dân mới ý thức và cảm nhận được quyền làm chủ xã hội và đất nước của mình. Mình thực sự biết rõ để chọn ra và kiểm soát những người điều hành Làng Xã, Thị Xã để đề ra những công việc cụ thể do nhu cầu của dân địa phương, và thực hiện luật lệ cũng như các chính sách nhà nước một cách nghiêm minh, nhằm phục vụ quyền lợi cả tinh thần, lẫn vật chất cho chính người dân, chứ không vì quyền lợi của kẻ thống trị, đảng phái cầm quyền, hoặc tôn giáo toàn thống. Đây mới là nền Dân Chủ Trực Tiếp, từ đó ý thức dân chủ trưởng thành để người dân đủ trình độ sáng suốt chọn bầu ra các thành phần lãnh đạo quốc gia. Đây là đường hướng xây dựng thể chế dân chủ đi từ gốc lên trên. Còn các cuộc gọi là cách mạng thì ưu tiên đoạt chính quyền trung ương, rồi mới thực hiện các lý tưởng này, nọ, hoặc thi hành xây dựng dân chủ. Tức là đi từ ngọn xuống, nên thường thì chẳng bao giờ tới được gốc, vì dễ rơi vào thế chuyên chế. Riêng với chủ trương của Quốc Tế Cộng Sản thì họ tự nhận họ thuộc chế độ Vô Sản Chuyên Chính. Họ chỉ vì quyền lợi của Nhân Dân Lao Động, không vì lợi ích của Người Dân Mỗi Nước. Đó là trên lý thuyết, còn thực tế, khi Cộngđảng cướp được chính quyền ở Nga. ở Tầu, ở Việt… thì những lãnh tụ trở thành Vị Vua cực quyền. Đảng trở thành Giai Cấp Thống Trị, Nhân Dân Lao Động và Toàn Dân đều trở thành những tên Nô Lệ Khổ Sai, Trí Thức bị hèn hóa chỉ biết phục vụ cho ý muốn hoang tưởng và quyền lợi của lãnh tụ và cộngđảng. Đó là nguyên nhân nội tại, tương tác với duyên ngoại lai của chiến lược Mỹ, tạo ra cảnh huynh đệ tương tàn, làm cho Quốc Tế Cộng Sản sụp đổ.
Cộngsản Tầu, Cộngsản Việt tuy đã đầu hàng Tưbản, nhưng không dám thực hiện dân chủ đúng nghĩa, chỉ muốn đổi từ cộng sản bao cấp thành tư bản bóc lột, để được nhận vào kinh tế thị trường. Vì muốn có những thị trường nhân dụng rẻ tiền, nên tư bản các nước kỹ nghệ cũng hăm hở đổ vốn đầu tư vào làm ăn, và mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa cho hàng của Tầu, Việt nhập cảng. Thế nhưng vì lợi nhuận lâu dài của giới tư bản và vị thế chiến lược của Mỹ và các cường quốc Dân Chủ, họ vẫn dùng áp lực Nhân Quyền để buộc các nước còn duy trì cơ chế độc đảng độc tài như Tầucộng, Việtcộng phải tuân thủ những đòi hỏi thực tế của họ. Đồng thời từng bước phải thay đổi chế độ và luật pháp cho hợp với nhu cầu kinh tế thị trường toàn cầu hóa. Vì nguyên tắc phát triển của kinh tê thị trường là phải Dân Chủ Hóa Chế Độ. Có như vậy người dân ở các nước Dân Chủ Tự Do mới trở thành khách hàng tiêu thụ sản phẩm của kỹ nghệ tư bản, và những Quốc Gia đó mới đủ khả năng tài chánh để trang bị kỹ thuật cao của Mỹ trong sản xuất và phòng thủ đất nước. Chính vì vậy mà mấy năm gần đây. Hoakỳ đã tài trợ cho Tầucộng tổ chức bầu cử trực tiếp tại một số thí điểm Xã Ấp. Nhưng Tầucộng đã lươn lẹo, không cho bầu cử trực tìếp ở đơn vị Hành Chánh Gốc là Xã, mà chỉ cho bầu các Trưởng Thôn, Trưởng Ấp. Xã vẫn nằm trong hệ thống tham nhũng của các cấp ủy đảng. Bởi vậy các Trưởng Thôn, Trưởng Ấp do dân bầu mới vì quyền lợi của dân, tổ chức các cuộc biểu tình đòi quyền sống, mà mỗi năm có tới hàng Trăm Ngàn vụ xẩy ra ở Trungcộng.
Nay Việtcộng đi xa hơn Tầucộng một bước, là dự định cho dân bầu trực tiếp Chủ Tịch Xã, người cầm đầu Ủy Ban Nhân Dân Xã. Tức là đơn vị Hành Chánh Gốc của Nhà Nước. Định bỏ các Hội Đồng Nhân Dân Xã, Phường, Huyện, Quận, mà chỉ tăng cường thành phần HĐND tỉnh, và thành phố trực thuộc Trung Ương. Nhưng xem ra Cộngđảng vẩn duy trì thứ Đảng Ủy và Viên Bí Thư Xã để nắm đầu Chủ Tịch Xã và Ủy Ban Nhân Dân Xã. Rồi trao cho Mặt Trận Tổ Quốc đứng ra tổ chức bầu cử theo công thức bầu bán lạc hậu “Đảng Cử Dân Bầu”. Như vậy dù dân có bầu ra Chủ Tịch Xã thì vẫn bị thứ cơ chế Đảng Lãnh Đạo, Nhà Nước Quản Lý và Dân vẫn Làm Mọi như xưa. Đây là một trò bịp lớn, không chỉ bịp toàn dân Việt, mà bịp luôn cả Mỹ, bịp toàn thể dư luận quốc tế.
Việc Người Dân trong Xã trực tiếp bầu Xã Trưởng và 4 hoặc 6 Nghị Viên Xã để quyết định đường lối và điều khiển hệ thống hành chánh xã là đúng với nhu cầu, và đòi hỏi của Nền Dân Chủ Trực Tiếp, mang tính thời đại. Lại rất hợp với truyền thống Dân Tộc đã có từ ngàn xưa. Đây là nguyên tắc “Phép Vua Thua Lệ Làng” trong hành trình bảo vệ tinh thần độc lập của Dân Tộc trước sức khống chế của các Đế Quốc, bắt Vua ta phải xưng thần, triều cống và nghe lệnh. Vì biết cách tổ chức đơn vị Làng Xã Tự Quản, nên thời bình dù Vua có bị xưng thần, thì dân vẫn nuôi được tinh thần Độc Lâp, thời chiến Làng Xã là đồn lũy chiến đấu trường kỳ. Dân Tộc Việt nhờ đó mới thoát khỏi một ngàn năm bị người Tầu đồng hóa, và một trăm năm bị Thực Dân Pháp cải hóa. Nhưng rồi chính Hồ Chí Minh và Việtcộng đã tiêu diệt tận gốc rễ hệ thống Làng Xã Tự Quản, qua việc nhận lệnh Nga, Tầucộng thực hiện Cải Cách Ruộng Đất. Rồi cấy vào đó thứ “Chi Bộ Cộng Sản Xã”. Sau đó Việtcộng theo Nga thì bắt toàn dân phải thờ Nga, theo Tầu thì buộc toàn dân nô lệ Tầu. Nay, Việtcộng nếu muốn chuộc trọng tội đó với Dân Tôc và Toàn Dân thì nên khởi sự bằng việc tự hủy bỏ hệ thống Đảng Ủy tại Làng Xã, Thị Xã. Nghiêm chỉnh tổ chức một cuộc bầu cử thật sự tự do, công bằng, vô tư, trong sáng. Trao cho thành phần dân sự ngoài đảng, chính quyền và MTTQ, đứng ra tổ chức bầu cử tại Làng Xã, Thị Xã. Tập thể có nhân sự và khả năng làm việc đó ở Việtnam hiện nay là các Trường Đại Học. Vì sinh viên chỉ trong ngắn ngày là có thể học hiểu luật, phương pháp vận động, tổ chức bầu cử. Rồi từng nhóm trên mươi người do một Giáo Sư hướng đẫn về từng Làng Xã, Thị Xã tiến hành bầu cử. Chỉ có thế người dân mới tin tưởng, người được bầu ra mới thấy mình không bị thượng cấp ban ơn và lệ thuộc họ. Lúc đó chỉ biết có quyền lợi của dân và pháp luật của Quốc Gia Dân Chủ.
Little Saigon ngày 26-08-2008.
---------
- - Âm mưu sách lược của csvn đ/v phong trào dân chủ hiện nay : tiêu hủy tinh thần dân tộc Việt !! - 31/8/08
Thursday, August 28, 2008
Phát biểu của LM Phan Văn Lơi nhân Lễ ra mắt sách “Chứng nhân của Sự thật và Lẽ phải”
Phát biểu của LM Phan Văn Lơi nhân Lễ ra mắt sách “Chứng nhân của Sự thật và Lẽ phải” cùng Dạ tiệc văn nghệ “Giúp Dân oan và Gia đình Tù nhân lương tâm” do Uỷ Ban Yểm Trợ Phong trào Dân chủ Việt Nam bang Washington tổ chức ngày 24-08-2008 tại Seattle.
Kính thưa Ủy ban Yểm trợ Phong trào Dân chủ Việt Nam bang Washington,
Kính thưa Quý Lãnh đạo tinh thần các Tôn giáo,
Kính thưa Quý Đại diện các Cộng đồng, Đoàn thể, Tổ chức,
Kính thưa Quý Nghệ sĩ phục vụ thiện nguyện, Quý Cơ quan Truyền thông,
Kính thưa Quý Đồng bào tỵ nạn Cộng sản tại bang Washington.
Chúng tôi là linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, đại diện Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền, từ Việt Nam xin kính chào toàn thể Quý vị. Nguyện chúc Quý vị được ơn an bình của Thượng Đế là cha chung của mọi người. Chúng tôi xin cảm ơn Ban tổ chức đã cho phép chúng tôi được bày tỏ vài tâm tư tình cảm nhân buổi lễ ra mắt sách “Chứng nhân của Sự thật và lẽ phải” cũng như dạ tiệc văn nghệ yểm trợ Dân oan và Gia đình Tù nhân lương tâm hôm nay.
Kính thưa toàn thể Quý vị
Kể từ tháng 4-1975, sau khi cướp được lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, Cộng sản bắt đầu cướp những tài sản vật chất và tinh thần của nhân dân miền Nam. Tài sản vật chất là của cải, nhà cửa, đến đất đai, ruộng vườn… qua những chiêu bài cải tạo chế độ, cải tạo công thương nghiệp, cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp đến lại qua những chiêu bài mở cửa kinh tế, kêu gọi đầu tư, xây dựng khu chế xuất, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa… Tất cả những trò cướp bóc hợp pháp hay bất hợp pháp đó đã tạo ra đủ cảnh oan ức ngút trời, đủ thứ dân oan thê thảm tại Việt Nam: dân oan lý lịch, dân oan kinh tế mới, dân oan thương phế binh, dân oan học tập cải tạo, dân oan nông dân bị tước đoạt ruộng vườn, dân oan thị dân bị tước đoạt nhà cửa, dân oan công nhân bị tước đoạt đồng lương, dân oan lao nô và tình nô bị tước đoạt nhân phẩm, dân oan tôn giáo bị tước đoạt đất đai cơ sở hành đạo. Cuộc đàn áp bà con nông dân quận 9 và quận Tân Bình thành phố Sài Gòn, phường Tiền Phong thành phố Thái Bình, huyện Đông Anh thành phố Hà Nội, cuộc đàn áp giáo dân giáo xứ Kẻ Mui tỉnh Hà Tĩnh, giáo xứ Sáo Cát tỉnh Thừa Thiên, giáo xứ Thái Hà thành phố Hà Nội, cuộc cướp bóc đất đai nhà cửa dòng Nữ tử Bác ái Vinh Sơn ở Sài Gòn, dòng Nữ tu thánh Phaolô ở Lâm Đồng, ở Vĩnh Long, ở Hà Nội v.v… mà các phương tiện truyền thông phi Cộng sản loan tin trong những ngày này chỉ kéo dài thêm danh sách dân oan Việt Nam và danh sách tội ác của nhà nước, đảng viên và cán bộ Việt cộng.
Tài sản tinh thần bị Cộng sản cướp đi chính là những quyền tự do cơ bản như tự do tôn giáo, tự do bầu cử, tự do ngôn luận, tự do lập hội v.v… khiến cho đủ mọi giới đồng bào đứng lên chống đối và đủ hạng tù nhân lương tâm xuất hiện tại Việt Nam: tù nhân vì tự do tôn giáo như bao lãnh đạo tinh thần trong Cao đài, Công giáo, Hòa Hảo, Phật giáo, Tin lành; tù nhân vì tự do chính trị như bao nhà đối kháng dân chủ từ Nam chí Bắc, từ già tới trẻ, từ quốc gia chống cộng tới đảng viên phản tỉnh; tù nhân vì tự do ngôn luận như bao phóng viên nhà nước tố cáo các vụ tham ô, bao ký giả độc lập vạch trần các sai lầm và tội ác của đảng, bao dân oan dũng cảm tố cáo cán bộ địa phương cướp bóc dân lành; tù nhân vì tự do lập hội như bao thành viên các chính đảng dân chủ và phi cộng sản đang hoạt động tại Việt Nam, bao thành viên các tổ chức công dân và tổ chức dân sự như hội Dân oan, công đoàn độc lập, hiệp hội Công Nông đoàn kết… Những vụ việc gần đây nhất là hành hung mục sư Nguyễn Công Chính, mạ lỵ Hòa Thượng Thích Quảng Độ, đánh đập nhà truyền đạo Lê Duy Bắc, vu khống linh mục Vũ Khởi Phụng, kết án nhà dân chủ Phạm Bá Hải, hành hung cựu đảng viên Vi Đức Hồi, bức bách thủ lãnh nông dân Phạm Văn Phồn, đuổi việc giáo viên Vũ Hùng, hăm dọa nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, bắt cóc chiến sĩ dân oan Lê Thị Kim Thu, tống ngục cựu chiến binh Lê Thanh Tùng v.v… Tất cả những hành động vô pháp luật, phản dân chủ đó chỉ kéo dài thêm danh sách tù nhân lương tâm Việt nam và danh sách tội ác của đảng cùng bộ máy cầm quyền Việt Cộng…
Giữa bao cảnh oan khiên dậy đất, bất công ngút trời đó, giữa bao tội ác trời không dung, đất không tha đó, giữa bao hành động thần căm giận, người phẫn nộ đó, đã nổi bật lên và vẫn còn bừng sáng một khuôn mặt, một tâm hồn, một nhân cách, một tấm gương vừa xả thân cho đạo, vừa quên thân vì đời, vừa là tu sĩ bảo vệ cho quyền lợi của Thiên Chúa, vừa là chiến sĩ bảo vệ cho quyền lợi của con người. Đó là đức Cố Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền của Giáo phận Huế. Một chủ chăn Giáo hội từng lưu lại và thể hiện trong đời mình câu nói bất hủ: “Đã có những Giám mục bị tù vì bênh vực quyền lợi của Hội Thánh. Nay có Giám mục nào bị tù vì bênh vực quyền lợi của con người chăng?”. Một chức sắc Công giáo từng được nhà bình luận Phật tử Lý Đại Nguyên xưng tụng qua thành ngữ để đời: “Sống là Bậc Đại Sĩ - Chết là Đấng Tử đạo”. Đức Cố TGM là một trong những khuôn mặt lãnh đạo tinh thần đích thực của Việt Nam hôm nay, vừa ảnh hưởng lên tôn giáo, vừa ảnh hưởng lên xã hội, vừa là Tôi trung của Đấng Chí Tôn, vừa là Anh hùng của toàn Dân tộc, vừa bảo vệ những giá trị tâm linh, vừa bênh vực những giá trị nhân bản, vừa dùng cả lời nói, việc làm, vừa dùng cả khổ đau, tử nạn để gióng lên Sự Thật, Lẽ Phải và Tình thương trong cái chế độ cộng sản dối trá, bất công và bạo tàn trên Quê hương chúng ta. Đó là những điều mà tất cả Quý vị sẽ thấy khi lần giở từng trang của tác phẩm “Chứng nhân của Sự thật và Lẽ phải” được ra mắt hôm nay.
Kính thưa Quý vị
Đức cố Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền cũng từng là một dân oan tôn giáo và là một tù nhân lương tâm. Chúng tôi hy vọng rằng cuộc sống đau thương, tấm gương anh dũng của ngài sẽ thúc đẩy tất cả Quý vị mở lòng từ tâm quảng đại đối với những đồng bào chúng ta, rất đông đảo tại quê nhà, hiện là những dân oan bất hạnh đang rên siết vì sự bóc lột của cộng sản hay là những tù nhân lương tâm và gia đình của họ đang hy sinh vì đại nghĩa của dân tộc.
Để kết thúc, nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền chúng tôi xin chân thành cảm ơn Ủy ban Yểm trợ Phong trào Dân chủ Việt Nam bang Washington, đặc biệt ông Nguyễn An Quý, đồng hương rất thân yêu, đã đứng ra in ấn, giới thiệu và phát hành tác phẩm, xin chân thành cảm ơn tất cả những vị sẽ góp phần làm cho buổi ra mắt sách và dạ tiệc văn nghệ yểm trợ quốc nội hôm nay được thành công. Nguyện xin Thiên Chúa ban lại cho Quý vị ngàn muôn ơn phước.
Phát biểu từ Huế ngày 20-08-2008
Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi
vnexodus
------------------------
- Duc Tong Giam Muc Philippe Nguyen Kim Dien, Tong Giam Muc Dia Phan ...
Đức Tổng Giám Mục Philipphê Nguyễn Kim Điền Đã Tử Đạo Thế Nào ? "Từ ngàn xưa, trải qua lịch sử Giáo Hội, đã có nhiều vị chết để bảo vệ quyền lợi của Giáo ...
Kính thưa Ủy ban Yểm trợ Phong trào Dân chủ Việt Nam bang Washington,
Kính thưa Quý Lãnh đạo tinh thần các Tôn giáo,
Kính thưa Quý Đại diện các Cộng đồng, Đoàn thể, Tổ chức,
Kính thưa Quý Nghệ sĩ phục vụ thiện nguyện, Quý Cơ quan Truyền thông,
Kính thưa Quý Đồng bào tỵ nạn Cộng sản tại bang Washington.
Chúng tôi là linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, đại diện Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền, từ Việt Nam xin kính chào toàn thể Quý vị. Nguyện chúc Quý vị được ơn an bình của Thượng Đế là cha chung của mọi người. Chúng tôi xin cảm ơn Ban tổ chức đã cho phép chúng tôi được bày tỏ vài tâm tư tình cảm nhân buổi lễ ra mắt sách “Chứng nhân của Sự thật và lẽ phải” cũng như dạ tiệc văn nghệ yểm trợ Dân oan và Gia đình Tù nhân lương tâm hôm nay.
Kính thưa toàn thể Quý vị
Kể từ tháng 4-1975, sau khi cướp được lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, Cộng sản bắt đầu cướp những tài sản vật chất và tinh thần của nhân dân miền Nam. Tài sản vật chất là của cải, nhà cửa, đến đất đai, ruộng vườn… qua những chiêu bài cải tạo chế độ, cải tạo công thương nghiệp, cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp đến lại qua những chiêu bài mở cửa kinh tế, kêu gọi đầu tư, xây dựng khu chế xuất, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa… Tất cả những trò cướp bóc hợp pháp hay bất hợp pháp đó đã tạo ra đủ cảnh oan ức ngút trời, đủ thứ dân oan thê thảm tại Việt Nam: dân oan lý lịch, dân oan kinh tế mới, dân oan thương phế binh, dân oan học tập cải tạo, dân oan nông dân bị tước đoạt ruộng vườn, dân oan thị dân bị tước đoạt nhà cửa, dân oan công nhân bị tước đoạt đồng lương, dân oan lao nô và tình nô bị tước đoạt nhân phẩm, dân oan tôn giáo bị tước đoạt đất đai cơ sở hành đạo. Cuộc đàn áp bà con nông dân quận 9 và quận Tân Bình thành phố Sài Gòn, phường Tiền Phong thành phố Thái Bình, huyện Đông Anh thành phố Hà Nội, cuộc đàn áp giáo dân giáo xứ Kẻ Mui tỉnh Hà Tĩnh, giáo xứ Sáo Cát tỉnh Thừa Thiên, giáo xứ Thái Hà thành phố Hà Nội, cuộc cướp bóc đất đai nhà cửa dòng Nữ tử Bác ái Vinh Sơn ở Sài Gòn, dòng Nữ tu thánh Phaolô ở Lâm Đồng, ở Vĩnh Long, ở Hà Nội v.v… mà các phương tiện truyền thông phi Cộng sản loan tin trong những ngày này chỉ kéo dài thêm danh sách dân oan Việt Nam và danh sách tội ác của nhà nước, đảng viên và cán bộ Việt cộng.
Tài sản tinh thần bị Cộng sản cướp đi chính là những quyền tự do cơ bản như tự do tôn giáo, tự do bầu cử, tự do ngôn luận, tự do lập hội v.v… khiến cho đủ mọi giới đồng bào đứng lên chống đối và đủ hạng tù nhân lương tâm xuất hiện tại Việt Nam: tù nhân vì tự do tôn giáo như bao lãnh đạo tinh thần trong Cao đài, Công giáo, Hòa Hảo, Phật giáo, Tin lành; tù nhân vì tự do chính trị như bao nhà đối kháng dân chủ từ Nam chí Bắc, từ già tới trẻ, từ quốc gia chống cộng tới đảng viên phản tỉnh; tù nhân vì tự do ngôn luận như bao phóng viên nhà nước tố cáo các vụ tham ô, bao ký giả độc lập vạch trần các sai lầm và tội ác của đảng, bao dân oan dũng cảm tố cáo cán bộ địa phương cướp bóc dân lành; tù nhân vì tự do lập hội như bao thành viên các chính đảng dân chủ và phi cộng sản đang hoạt động tại Việt Nam, bao thành viên các tổ chức công dân và tổ chức dân sự như hội Dân oan, công đoàn độc lập, hiệp hội Công Nông đoàn kết… Những vụ việc gần đây nhất là hành hung mục sư Nguyễn Công Chính, mạ lỵ Hòa Thượng Thích Quảng Độ, đánh đập nhà truyền đạo Lê Duy Bắc, vu khống linh mục Vũ Khởi Phụng, kết án nhà dân chủ Phạm Bá Hải, hành hung cựu đảng viên Vi Đức Hồi, bức bách thủ lãnh nông dân Phạm Văn Phồn, đuổi việc giáo viên Vũ Hùng, hăm dọa nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, bắt cóc chiến sĩ dân oan Lê Thị Kim Thu, tống ngục cựu chiến binh Lê Thanh Tùng v.v… Tất cả những hành động vô pháp luật, phản dân chủ đó chỉ kéo dài thêm danh sách tù nhân lương tâm Việt nam và danh sách tội ác của đảng cùng bộ máy cầm quyền Việt Cộng…
Giữa bao cảnh oan khiên dậy đất, bất công ngút trời đó, giữa bao tội ác trời không dung, đất không tha đó, giữa bao hành động thần căm giận, người phẫn nộ đó, đã nổi bật lên và vẫn còn bừng sáng một khuôn mặt, một tâm hồn, một nhân cách, một tấm gương vừa xả thân cho đạo, vừa quên thân vì đời, vừa là tu sĩ bảo vệ cho quyền lợi của Thiên Chúa, vừa là chiến sĩ bảo vệ cho quyền lợi của con người. Đó là đức Cố Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền của Giáo phận Huế. Một chủ chăn Giáo hội từng lưu lại và thể hiện trong đời mình câu nói bất hủ: “Đã có những Giám mục bị tù vì bênh vực quyền lợi của Hội Thánh. Nay có Giám mục nào bị tù vì bênh vực quyền lợi của con người chăng?”. Một chức sắc Công giáo từng được nhà bình luận Phật tử Lý Đại Nguyên xưng tụng qua thành ngữ để đời: “Sống là Bậc Đại Sĩ - Chết là Đấng Tử đạo”. Đức Cố TGM là một trong những khuôn mặt lãnh đạo tinh thần đích thực của Việt Nam hôm nay, vừa ảnh hưởng lên tôn giáo, vừa ảnh hưởng lên xã hội, vừa là Tôi trung của Đấng Chí Tôn, vừa là Anh hùng của toàn Dân tộc, vừa bảo vệ những giá trị tâm linh, vừa bênh vực những giá trị nhân bản, vừa dùng cả lời nói, việc làm, vừa dùng cả khổ đau, tử nạn để gióng lên Sự Thật, Lẽ Phải và Tình thương trong cái chế độ cộng sản dối trá, bất công và bạo tàn trên Quê hương chúng ta. Đó là những điều mà tất cả Quý vị sẽ thấy khi lần giở từng trang của tác phẩm “Chứng nhân của Sự thật và Lẽ phải” được ra mắt hôm nay.
Kính thưa Quý vị
Đức cố Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền cũng từng là một dân oan tôn giáo và là một tù nhân lương tâm. Chúng tôi hy vọng rằng cuộc sống đau thương, tấm gương anh dũng của ngài sẽ thúc đẩy tất cả Quý vị mở lòng từ tâm quảng đại đối với những đồng bào chúng ta, rất đông đảo tại quê nhà, hiện là những dân oan bất hạnh đang rên siết vì sự bóc lột của cộng sản hay là những tù nhân lương tâm và gia đình của họ đang hy sinh vì đại nghĩa của dân tộc.
Để kết thúc, nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền chúng tôi xin chân thành cảm ơn Ủy ban Yểm trợ Phong trào Dân chủ Việt Nam bang Washington, đặc biệt ông Nguyễn An Quý, đồng hương rất thân yêu, đã đứng ra in ấn, giới thiệu và phát hành tác phẩm, xin chân thành cảm ơn tất cả những vị sẽ góp phần làm cho buổi ra mắt sách và dạ tiệc văn nghệ yểm trợ quốc nội hôm nay được thành công. Nguyện xin Thiên Chúa ban lại cho Quý vị ngàn muôn ơn phước.
Phát biểu từ Huế ngày 20-08-2008
Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi
vnexodus
------------------------
- Duc Tong Giam Muc Philippe Nguyen Kim Dien, Tong Giam Muc Dia Phan ...
Đức Tổng Giám Mục Philipphê Nguyễn Kim Điền Đã Tử Đạo Thế Nào ? "Từ ngàn xưa, trải qua lịch sử Giáo Hội, đã có nhiều vị chết để bảo vệ quyền lợi của Giáo ...
Wednesday, August 27, 2008
Lời tố cáo lịch sử 78 năm tồn tại của Đảng CSVN gian trá và lưu manh
Đảng CSVN ngày nay vẫn mang bản chất bảo thủ và tư tưởng đạo đức của Đảng CSVN lưu manh thời Hồ Chí Mịnh còn sống vậy. Thành phần của Đảng CSVN chủ yếu vẫn là lưu manh giặc cỏ khi xưa thời tiền kỳ có Đảng. Nay tuy có thêm một số người có chút xíu lương tri làm người đứng trong đội ngũ Đảng CSVN lưu manh. Song số người này lại không nhiều có lập trường quan điểm tiến bộ. Họ không có bản lĩnh để chứng tỏ rõ thái độ và quan điểm của chính bản thân là không đồng tình với chủ trương đường lối chính sách : “Chủ nô độc tài phát xít” của Đảng CSVN lưu manh. Mà họ hết thảy cũng đành nhắm mắt làm ngơ để cho Đảng CSVN lưu manh duy trì bảo lưu chế độ “Chủ nô độc tài phát xít đó và quyết đi theo con đường chủ nô độc tài phát xít” của Đảng CSVN lưu manh mà thôi !!!
Bản chất thành phần của Đảng CSVN lưu manh là bầy lũ giặc cỏ, là lũ cùng đinh vô học nên đầu chúng
Bà Phạm Khánh Toàn 58 tuổi. Địa chỉ nhà ở : số 12, ngõ 563,
Đường Giải Phóng, phường Giáp Bát, quận Hoàng Mai, TP - Hà Nội. (Tác giả bài viết)
ngắn tủn và chỉ nghĩ được mỗi một điều đơn giản là giành quyền lực với đủ mưu mô, thủ đoạn bằng mọi giá ngu hèn nhằm duy trì bảo lưu quyền lực làm chủ nô độc tài phát xít. Còn với đất nước, với dân tộc Đảng CSVN lưu manh lại ngu và đểu tận cùng của sự đểu cáng làm hại lớn cho đất nước VN, cho dân tộc VN chúng ta…
Đó là việc Đảng CSVN lưu manh đã ngu lâu ký ngay 2 hiệp ước Biên giới Việt Trung ngày 30/12/1999 để giao 1694 km vuông đất trên biên giới cho Trung Quốc và hiệp ước phân định vịnh Bắc Bộ ngày 25/12/2000 giao 11000 km vuông lãnh hải cho cũng cho Trung Cộng. Đây là việc làm ngu hèn tột độ của Đảng CSVN lưu manh đã làm mất đi lẽ sống thiêng liêng của dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm.Vì sao là người thảo dân, dân đen tôi lại ngang ngược xỉ vả cả cái Đảng CSVN lưu manh đến thậm tệ như vậy, vì tôi là một dân thường, một phụ nữ lại tàn tật tay không dám ngang ngửa đấu đá với tất cả Đảng CSVN lưu manh cướp đất của má tôi đến thắng lợi huy hoàng. Cuối cùng Đảng CSVN lưu manh phải chịu thua cuộc không cướp được tấc đấc nào của má tôi….
Vậy mà Đảng CSVN lưu manh dương dương tự đắc với cả thế giới rằng: Hồ Chí Minh cùng Đảng CSVN lưu manh “tài giỏi” lắm đã lừa đảo cả một dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm mà Đảng CSVN lưu manh lại qua mắt dân VN để đi đêm “ Tàu ô cộng sản ” làm việc vụng trộm với chúng để giao 1694 km đất biên giới và 11000 km lãnh hải cho Tàu Cộng đại Hán. Việc này làm này là nỗi ô nhục muôn kiếp không rửa sạch cho đảng cướp CSVN !!!.
Bây giờ tôi xin kể tỉ mỉ chi tiết việc Đảng CSVN lưu manh cướp đất của má tôi không thành cho cả nhân loại trên thế gian này rõ ngọn nguồn câu chuyện nhé.
Đất của ba má tôi nằm trên địa phận Giáp Bát gần trục đường quốc lộ 1A. Vào năm 1986 nhà nước CSVN mở rộng đường quốc lộ này, nên 756 mét vuông đất của má tôi bị mất một phần cho việc mở rộng đường, phần còn lại trở thành mặt đường lại là trục đường chính quốc lộ 1 A đẹp đẽ đầy lợi nhuận. Bầy lũ Đảng CSVN lưu manh tham lam, tối mắt tối mũi đã dùng quyền lực của Đảng CSVN lưu manh cậy thế đàn áp gia đình má con tôi mưu toan cướp đất Giáp Bát. Ngày 19/6/1987 tên Nguyễn Trọng Thanh phó chủ tịch quận Hai Bà Trưng thay mặt Đảng CSVN lưu manh ký ngay một cái quyết định phá nhà của má tôi đang ở. Mấy tháng sau khoảng sau ngày quốc khánh của CSVN, mùng 2/9/1987 và sau ba ngày Đảng CSVN lưu manh họp bàn mưu tính kế phá nhà cướp đất của má tôi xong, là Đảng CSVN lưu manh mang một lực lượng lớn khoảng sáu, bảy trăm tên công an mang sắc phục súng ống chỉnh tề và hàng trăm lũ chính quyền các cấp từ thành phố xuống phường, các ban bệ các ngành giao thông tư pháp vv…. dải dày đặc suốt từ Cống Trắng tới cổng làng Tám khoảng chừng 500m chiều dài trục đường Giáp Bát. Và còn rất nhiều xe ôtô các loại, như xe cứu thương xe cứu hỏa, xe cảnh sát, xe thùng bịt kín, xe ben, xe tải vv…được chúng điều đến nữa. Chỉ thiếu mỗi xe tăng thiết giáp là Đảng CSVN lưu manh không huy động đến phá nhà cướp đất của má con tôi thôi.
Đảng CSVN lưu manh huy động một lực lượng lớn đồ sộ hùng hậu để đàn áp dân lành trong tay không tấc sắt. Vậy mà trong khi đó gia đình má tôi chỉ vẻn vẹn chỉ có 5 người. Má tôi thì gần 70 tuổi, còn tôi thì bị tàn tật, cậu em trai sát tôi bị bại liệt cả hai chân không đi được, 2 cô em gái đang bước sang tuổi thanh niên. Đảng CSVN lưu manh chúng bắt đầu ngăn cản nội bất xuất, ngoại bất nhập để dân tình hàng xóm láng giềng làng nước không ai tới giúp má con tôi được. Tôi trực tiếp dùng dằng đấu lý về pháp luật với tên Thế Phong chủ tịch phường Giáp Bát nhằm kéo dài thời gian để kịp cho người có quyền lực và có lương tri tới kịp thời cứu giúp má con tôi khỏi bị phá nhà. Nhưng bầy lũ Đảng CSVN lưu manh chúng cố tình phá nhà cướp đất của má con chúng tôi. Chúng không cho kéo dài thời gian thêm nữa và chúng tiến hành thu giữ tài sản đồ đạc gom vào UBND phường để chúng phá nhà má con tôi tan hoang bằng sức mạnh vũ lực rất thô bạo.
Trời sui sao khiến vậy, thương má con tôi cảnh mẹ già, con tàn tật nên bí thư thành ủy Nguyễn Thanh Bình điện ngay xuống quận Hai Bà Trưng xem xét việc Đảng CSVN lưu manh phá nhà cướp đất của má tôi ra sao để báo cáo lại cho thành ủy biết.
Ông Dương bí thư quận ủy cộng sản quận Hai Bà Trưng phải thân trinh xuống tận số nhà 87 phố Làng Tám ( ngày nay là số nhà 587 và 589 đường Giải Phóng, Giáp Bát, quận Hoàng Mai, Hà Nội ) để chứng kiến thực hư cảnh Đảng CSVN lưu manh huy động lực lượng lớn đến đàn áp ức hiếp 5 má con tôi đều cảnh đàn bà và có tôi là phụ nữ bị tật nguyền để phá nhà cướp đất lúc đó. Năm má con tôi bị quây lại giam ngồi trong sân nên không tận mắt thấy ông Dương bí thư quận ủy cộng sản Hai Bà Trưng xuống, mà chỉ đột nhiên thấy lũ hung hăng đang phá nhà dừng hết cả lại. Còn tất cả bầy lũ Đảng CSVN lưu manh chạy toán loạn như vịt cả lượt, rồi bỗng vắng tanh không người. Lúc đó dân xóm giềng sang báo cho má con tôi biết ông Dương bí thư quận ủy Hai Bà Trưng xuống quan sát tình hình. Lúc đó nhà chúng tôi mới bị chúng phá tan được cả mái nhà, má con tôi chắc mẩm sẽ lợp lại mái để ở. Vậy mà khi ông Dương quay về quận, bầy lũ Đảng CSVN lưu manh lại tiếp tục quay lại phá nốt nhà của mà tôi tới chân móng rồi chúng mới chịu ra về, chiều hôm đó công an CS quận Hai Bà Trưng bắt anh trai tôi lên quận vô cớ vì anh tôi ở nơi khác mà không có mặt tại nhà má chúng tôi khi chúng cướp phá. Là người dân lại là phụ nữ tàn tật tôi không đủ sức chống đỡ lại với lực lượng lớn hùng hậu đồ sộ của bầy lũ Đảng CSVN lưu manh ngay lúc đó chỉ còn biết chờ cho xong việc ngày hôm phá nhà đó là hôm sau tôi “nhẩy xếch” tố cáo lên trên Trung ương Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo đã dùng lực lượng lớn đồ sộ hùng hậu để đàn áp ức hiếp 5 người vừa già vừa tàn tật lại là phụ nữ để tịch thu tài sản phá nhà cướp đất, bắt người vô cớ gây ra cho dân cảnh “màn trời chiều đất” cho má con tôi.
May sao sự việc của má tôi xảy ra lại rơi vào đúng dịp bác Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư Đảng CSVN với khẩu lệnh “Những việc cần làm ngay", cô Ba Định, bác Nguyễn Hữu Thọ phó chủ tịch Hội đồng nhà nước ( phó chủ tịch nước ), bác Trần Kiên trưởng ban kiểm tra trung ương Đảng, bác Mười Hương trưởng ban nội chính trung ương, bác Trần Độ ra tay cứu giúp giải oan cho má con tôi. Vì thế nên quận Hai Bà Trưng đã phải xin lỗi anh tôi bằng văn bản và ngày 23/9/1990 sẽ bắt chủ tịch thành phố Hà Nội thay mặt Đảng CSVN lưu manh phải ra quyết định số 3484 DS/UB công nhận quyền sống ở của má tôi ở số nhà 87 phố Tám là hợp pháp được tồn tại trên đất đó. Kể từ ngày 23/8/1990 Đảng CSVN lưu manh không dám đem lực lượng xuống đàn áp dân Giáp Bát để phá nhà cướp đất như những lần trước nữa, nhưng chúng quay vào đàn áp và ức hiếp bản thân tôi đủ mọi đường suốt từ năm 1990 cho đến tận ngày nay 2008 này hòng cướp đất Giáp Bát lần nữa. Chúng ép buộc tôi phải bán hoặc đổi đất Giáp Bát của má tôi ở cho chúng thực hiện chính sách phá nhà của má tôi rồi Đảng CSVN lưu manh lớn tiếng rằng bà Cao Lệ Thu ( tức má tôi ) thua kiện phải phá nhà là lũ Đảng CSVN lưu manh sẽ cướp không đất của dân Giáp Bát - Cống Trắng đến cổng làng Tám rồi. Đảng CSVN lưu man cướp đất theo kiểu cuốn chiếu xuống tận đường khoảng chừng 1 km chiều dài trục đường 1A.
Thế nhưng tôi quyết không đổi, không bán đất của má tôi cho lũ Đảng CSVN lưu manh này. Thế là cả lũ Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo này đã và đang dùng mọi thủ đoạn dã man độc ác thậm tệ để đàn áp bản thân tôi mọi kiểu. Đảng CSVN lưu manh sai khiến bọn tay chân bên dưới cắt điện cúp nước của gia đình má tôi làm tất cả dân Giáp Bát cũng bị ảnh hưởng theo gia đình tôi. Đảng CSVN lưu manh lưu manh dùng trò ảo thuật làm cho vô tuyến nhà tôi bị nhiễu mất sóng. Thậm trí Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo sai khiến cả bọ lưu manh đầu gấu đời thường đâm vào xe tôi để tôi ngã lăn trên đường nhựa trước cổng trường Đại học Bách Khoa - Hà Nội ba vòng vv…. và nhiều vô kể các kiểu đàn áp ức hiếp dã man khác. Vậy mà cả cái Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo này vẫn không sao cướp nổi đất Giáp Bát với tôi. Nhưng cái Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo vẫn thường dương dương tự đắc là Đảng cầm quyền lãnh đạo cả một dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm mà Đảng CSVN lưu manh đầu óc như vịt lại ngu hèn đi đêm vụng trộm ký 2 hiệp ước biên giới Việt Trung và Vịnh Bắc bộ giao 1694 km vuông đất và 11000 km vuông lãnh hải cho Tàu Ô một cách mù quáng, nhục nhã.
Khi quân Tàu Cộng giết chết ngư dân Việt nam để cướp đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam cả cái Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo sợ bọn Tàu Cộng dúm tứ túc không dám có phản ứng gì với Tàu để bảo vệ dân VN vì thế nên tôi mới ngang ngửa xỉ vả cả cái Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo là thế. Cả cái Đảng CSVN lưu manh há miệng mắc quai rồi nên tất cả chúng thấy hành vi tàn ác, vô nhân đạo của bọn Trung Cộng mà không dám, nói gì về việc tôi xỉ vả Đảng CSVN lưu manh. Đấy là nói về chuyện giang sơn đất nước mà cả cái Đảng CSVN lưu manh ngu hèn vô nhân đạo làm hại đất nước.
Nói về tên Nguyễn Trọng Thanh phó chủ tịch CS quận Hai Bà Trưng là thủ phạm đã ký để phá nhà tôi năm ấy ( nay khu vực nhà tôi ở được gọi là quận Hoàng Mai) thì nhà riêng của nó là một biệt thự đẹp, sang trọng thời Pháp số nhà 13 thuộc ở vị trí ngã tư phố Hai Bà Trưng và Nguyễn Khắc Cần, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Sau đó khoảng năm 2004 hắn bán đi một đợt nhà lần đầu là hơn 10 tỷ nằm trong khuôn viên biệt thự, năm 2006 hắn bán nốt căn liền kề với giá 17 tỷ đồng VN, tất cả có số tài sản trên dưới 30 tỷ đồng VN thời giá năm 2006 trở về trước là tương đương với trên 2 triệu đô la Mỹ. Vậy thử hỏi các triệu phú Mỹ, Pháp, Nhật … có giàu có bằng những thằng quan cộng sản của đảng cướp này không ? Bây giờ tôi được biết gia đình nó chuyển lên gần Tây Hồ sống trong một Vila nguy nga tráng lệ hơn cung điện vua chúa thời trước.
Còn bây giờ tôi lại nói tiếp về Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo cùng Hồ Chí Minh cầm quyền lãnh đạo đưa dân tộc Việt Nam quay lại thời kỳ mọi rợ nguyên thủy và nghèo nàn lạc hậu nhất nhì trên thế giới từ năm 1946 tới nay nhé.
Đảng CSVN lưu manh đồng tình với Hồ Chí Minh đi sang Pháp nhằm giành quyền lực với vua Bảo Đại đầu năm 1946, từ đó chúng đã gây ra 2 cuộc chiến tranh với Pháp và Mỹ, thật không đáng có xảy ra làm cho dân VN máu chảy đầu rơi nhiều vô kể, máu chảy thành sông, xương chất thành núi. Lại còn cảnh Nam Bắc Việt Nam người cùng dân tộc tương tàn chém giết lẫn nhau để giành quyền lực cho ĐCSVN lưu manh mất hết cả đạo lý làm người, hủy hoại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam suốt một thời gian dài gần 30 năm.
Năm 1954 Hồ Chí Minh cùng đảng CSVN lưu manh vừa mới có quyền lực trong tay nhờ từ dân VN giúp cho, khi có được rồi vội quay lại cắn dân ngay trong đợt cải cách ruộng đất làm cho trên dưới 30 vạn người dân vô tội chết oan. Với 30 vạn người dân chết oan này cũng đã từng đóng góp cả sức người lẫn tiền của trong công cuộc giành quyền lực cho Hồ Chí Minh và Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo để chúng lên nắm quyền bính.
Hồ Chí Minh cùng Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo cướp hết tất cả ruộng đất của nông dân và cướp hết tất cả tài sản, nhà cửa, nhà máy công xưởng nơi thành thị
Hồ Chí Minh cùng bầy lũ Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo lừa hết tất cả dân VN từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng cho đến đồi núi phải làm công, làm nô lệ cho Hồ và cho Đảng CSVN lưu manh. Chúng không cho phát triển dân trí mà chúng đẻ ra chủ trương đường lối chính sách hà khắc, cay nghiệt dã man là “ ngu dân để trị dân ”. Chẳng thế mà tất cả dân VN sống như mọi rợ nguyên thủy vậy, đến nỗi ăn không đủ no, gạo thì gạo hẩm, gạo mốc, mặc dù không đủ ẩm, nhà ở như hang hũ ổ chuột chẳng ra nhà, điện thắp sáng không có, nước sạch trong sinh hoạt hàng ngày cũng không. Ngay TP - Hà Nội mang tiếng là thủ đô của đất nước mà chỉ có 36 phố phường là có điện của Pháp để lại cho dân dùng là có thôi còn xung quanh 36 phố phường tiến ra ngoại ô Hà Nội dân phải dùng đèn dầu thắp sáng, ăn uống nước giếng đất tự đào, rửa tay tắm giặt nước ao tù....
Năm 1986 bác Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư CSVN mới mở cửa để cởi trói cho dân chưa được bao lâu thì Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo lo sợ không gĩư được độc quyền « chủ nô độc tài phát xít » cho Đảng CSVN lưu manh. Cho nên Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo dùng thủ đoạn đê hèn ám sát bác Nguyễn Văn Linh ở bên CHDC Đức suýt chết. Hết nhiệm kỳ bác Nguyễn Văn Linh từ chức, tất cả các bác Nguyễn Hữu Thọ, Trần Kiên, Mười Hương cô Bá Định cũng từ chức. Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo lại đưa những tay đầu ngu như vịt dốt nát ngu xuẩn, nhưng có nhiều mưu mô thủ đoạn làm tổng bí thư Đảng CSVN lưu manh cầm quyền lãnh đạo trị vì dân, như Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh....lên nắm quyền cai trị dân.
Nói về Đỗ Mười là một tay nông dân vô học không có bất cứ một cái tài nào lên làm tổng bí thư CSVN. Đỗ Mười chỉ chăm chú tâm vào những việc cho bản thân y và con cái gia đình ăn cắp tiền tỉ làm giàu cho bản thân chứ không có tài để đưa đất nước phát triển lớn mạnh. Thậm trí Đỗ Mười còn là « học trò xuất sắc » của Hồ Chí Minh cũng đàn áp cướp bóc của dân không kém gì Hồ. Tên này biết quay quắt lừa đảo với cả thế giới để thế giới mất lòng tin vào đường lối mở cửa của Đảng CSVN lưu manh nên bị các nước họ mới cảnh cáo cho. Công trình Cửa hàng bách hóa tổng hợp Hà Nội bị bỏ hoang gần chục năm ngay giữa lòng trung tâm thủ đô, cái nhà to lớn nguy nga đẹp là thế của Pháp xây dựng để lại cho dân VN dùng thành đống đất hoang sơ gần cả chục năm trời. Chẳng là thế này : Đảng CSVN lưu manh quen với lối sống quay quắt lừa đảo với dân VN thế là cũng lừa đảo với cả các đầu tư nước ngoài. Nhiều nước đầu tư xong mà đất nước không phát triển tiền chảy vào túi cá nhân của bầy lũ Đảng CSVN lưu manh. Nên thấy vậy nước ngoài họ ký hợp đồng với chính phủ Việt Nam xây dựng Bách hóa tổng hợp thành trung tâm siêu thị cao tầng lớn nhất Hà Nội. Họ chờ cho chính phủ CSVN phá xong tòa nhà cao tầng lớn nhất Hà Nội thành đống đất hoang sơ họ phá hợp đồng không xây dựng trung tâm siêu thị cho VN. Vậy rồi chính phủ VN phải tự xây dựng lấy thành cái nhà 3 tầng thấp lè tè như lô cốt ngay giữa trung tâm thủ đô Hà Nội. Đỗ Mười ngu dốt nên phá là chính, chỉ phá không xây, phá mọi mặt, đất nước lại xộc xệch tồi tệ đi xuống, phẩm chất đạo đức của bọn công quyền triều đại Hồ + đảng CSVN lưu manh tụt dốc thảm hại. Các quan đua nhau ăn cắp, quan lớn ăn cắp lớn, quan nhỏ ăn cắp bé. Đám quan lại CSVN từ Trung ương đến địa phương bảo nhau đua tranh ăn cắp và đàn áp ra sức bóc lột nhân dân...
Về Lê Khả Phiêu gốc vốn cũng là một thằng nông dân Thanh Hóa tham gia kháng chiến giành quyền lực cho Hồ mà lên làm tổng bí thư CSVN. Khả Phiêu u mê nghe theo Đảng CSVN lưu manh chỉ đạo rắp tâm triệt hại những nhà kinh doanh giỏi giàu có ở miền Nam, chẳng thế mà khi Lê Khả Phiêu vừa mới lên ghế tổng bí thư đã chỉ đạo ngay cho ngành tòa án buộc án gán tội cho các vụ Tân Trường Sanh và vụ Ép Cô Minh Phụng để tử hình họ và cướp tiền bạc, tài sản của họ nữa. Thật là một chế độ chính sách dã man độc ác thậm tệ của Đảng CSVN lưu manh đối với dân VN. Đảng CSVN lưu manh đã và đang thực hiện đúng di chúc của Hồ Chí Minh là “ ngu dân để trị dân ” không cho dân tài giỏi phát triển giàu có. Chúng cố thủ đưa dân quay về thời kỳ đói nghèo lạc hậu để duy trì bảo lưu chế độ “ chủ nô độc tài phát xít của Hồ Chí Minh với Đảng CSVN lưu manh ”.
Với Trung Quốc thì Đảng CSVN lưu manh thật ngu hèn để mất đi lẽ sống thiêng liêng của dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm. Đảng CSVN lưu manh đã để cho Lê Khả Phiêu thay Đảng CSVN lưu manh ký ngay hiệp ước biên giới Việt Trung ngày 30/12/1999 giao cho 1694 km vuông đất biên giới cho Trung Quốc và Hiệp ước Vịnh Bắc bộ ngày 25/12/2000 giao 11000 km vuông lãnh hải cho Trung Quốc để đất nước VN mất dần diện tích đất và biển cho Trung Quốc một cách ngu hèn tột độ. Cả thế giới phải phẫn nộ và phỉ báng với thái độ, việc làm ngu xuẩn hèn hạ của Đảng CSVN lưu manh. Nước Mỹ phải treo cờ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu để phỉ báng Đảng CSVN vừa lưu manh lại ngu hèn.
Còn về Nông Đức Mạnh con rơi của Hồ Chí Minh mang đặc gien Hồ lên làm tổng bí thư CS cầm quyền lãnh đạo cũng chẳng có điểm gì thông minh xuất chúng để đưa đất nước tiến lên được. Ngược lại Mạnh có chút ít văn hóa hơn Hồ là bố Mạnh nên có phần Mạnh còn lưu manh hơn Hồ, lừa đảo nhân loại siêu nghệ hơn bố của Mạnh. Đó là khi Mạnh đắc cử vào ghế tổng bí thư CSVN lần thứ hai Mạnh thay đổi ngay bộ máy Trung ương, Mạnh đưa những người có chút ít trong sạch lên thay những phần tử có vết nhơ bị dân phát hiện như Nguyễn Minh Triết thay Trần Đức Lương, Nguyễn Phú Trọng thay Nguyễn Văn An, Nguyễn Tấn Dũng thay Phan Văn Khải vv... Mạnh làm việc này là để phô trương với nhân loại, rằng bộ máy lãnh đạo của Trung ương cộng sản Việt Nam đã thực sự là người trong sạch. Nhưng thực tế Mạnh đưa họ lên chỉ làm bù nhìn coi dưa vậy thôi, còn Mạnh lấy quyền lực Đảng cầm quyền. Mạnh khống chế hết thảy mọi người phải tuân thủ theo quỹ đạo của Đảng CSVN lưu manh sai khiến. Quỹ đạo của Đảng CSVN lưu manh vẫn là phương thức không phát triển dân trí “ngu dân để trị dân” cốt để duy trì bảo lưu chế độ “Chủ nô độc tài phát xít” của Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo này. Chẳng thế mà Mạnh lớn tiếng hô hào toàn Đảng toàn dân sống và làm việc theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh của bố hắn.
Về tư tưởng Hồ Chí Minh là một tư tưởng bệnh hoạn của một kẻ nghèo kiết xác cùng đinh muốn nổi loạn dành quyền lực đổi đời cho bản thân và có quyền lực bắt tất cả hết thảy mọi người dân sống nghèo khổ cùng cực như Hồ khi xưa cho bõ tức cảnh nghèo khổ của bản thân Hồ mà thôi, còn y thì không cần nghĩ đến đất nước ra sao với cảnh VN nghèo nàn lạc hậu nhất thê giới !!!
Bản chất đạo đức Hồ thật đồi bại dã man hơn ác thú. Hồ Chí Minh làm tình với Nông Thị Xuân có con với Nông Thị Xuân vậy rồi Hồ cũng còn dã tâm giết chết Nông Thị Xuân và Nông Thị Vàng là chị gái Nông Thị Xuân để bịt đầu mối. Còn đứa con của Hồ với Nông Thị Xuân là Nguyễn Tiến Trung, thì Hồ bỏ rơi bỏ vãi cho Vũ Kỳ người hầu cận của Hồ nuôi. Với dân cả nước Hồ lừa đảo lợi dụng để dựa nhờ vào sức mạnh cuả toàn dân mà dành quyền lực cho bản thân khi có quyền lực Hồ quay cổ lại cắn dân luôn để trả ơn dân giúp Hồ dành quyền lực với vua Bảo đại vậy đó. Hồ còn đẻ ra cái chủ trương chính sách không phát triển dân trí mà Hồ “ngu dân để trị dân ” để giữ vững ngai vàng làm “chủ nô độc tài phát xít ”. Vậy tất cả nhân loại trên thế gian xem đạo đức của Hồ có được bằng cầm thú không ? Vậy mà Nông Đức Mạnh cậy quyền lực Đảng CSVN lưu manh hô hào và bắt ép dân chúng cả nước phải sống và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vậy đó ?!
Chúng ta hãy nhìn vào thực tế đất nước xã hội và cuộc sống của người dân VN trong suốt thời gian Mạnh làm tổng bí thư để đánh giá tài năng của Mạnh cầm quyền lãnh đạo ra sao nhé.
Suốt 2 nhiệm kỳ Mạnh làm tổng bí thư CSVN dân không hề thấy Mạnh có hướng đưa dân VN tự phát triển ngành nghề sản xuất công nghệ thông tin điện tử, máy móc kỹ thuật hiện đại, máy bay... để tăng lợi nhuận có giá trị thặng dư cao cho đất nước để giảm thiểu nhập khẩu những mặt hàng cao cấp này. Đây là một sự phát triển nội lực lớn mạnh cho VN như các nước phát triển tiên tiến trên thế giới, thế mà Mạnh lại cam tâm cúi đầu đưa dân VN đi lao động xuất khẩu ở các nước phát triển và mở cửa cho các nước vào VN đầu tư để dân là người làm công cho các đầu tư nước ngoài chỉ cốt để giảm đói nghèo trước mắt cho dân và thông qua dân lao động trong nước và dân lao động xuất khẩu bầy lũ Đảng CSVN lưu manh được hưởng nhiều lợi lộc về kinh tế mà thôi, khác nào mạnh bất tài chỉ vì miếng cơm manh áo đơn giản hàng ngày. Mạnh cam tâm cúi đầu cùng dân VN làm nô lệ cho các nước phát triển trên thế giới. Thế mà Mạnh cùng bầy lũ CSVN lưu manh vênh váo gọi là phát triển đất nước VN lớn mạnh và Công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước như thế này ư ?
Khi các nước vào đầu tư VN thì cả họ cùng bầy lũ Đảng CSVN lưu manh gây phiền phức nhiễu loạn nhiều mặt đời sống của dân VN, chẳng hạn như vụ thôn My Điền, xã Hoàng Mai, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang mới đây chẳng hạn.
Đảng CSVN lưu manh cắm đất cầy cấy của nông dân My Điền tỉnh Bắc Giang bán cho Tàu ô xây sân gôn. Đảng CSVN lưu manh thí cho người nông dân một cái giá bèo bọt 50 nghìn đồng một m2 ruộng, rồi thả nổi khi nông dân không còn ruộng đất cầy cấy. Nông dân My Điền không thể đáp ứng lòng tham vô nhân đạo của Đảng CSVN lưu manh được. Vậy là Đảng CSVN lưu manh thôn My Điền huy động một lực lượng lớn quân đội và công an đến đàn áp ức hiếp hàng trăm người nông dân thôn My Điền để cướp đất ruộng của người dân làm 60 người nông dân My Điền bị thương trong trận đàn áp cướp đất ruộng đó của Đảng CSVN phải vào bệnh viện và sau đó tất cả bị bắt vào trại giam Kế tỉnh Bắc Giang.
Nông Đức Mạnh thường xách cặp đi các nước, Mạnh tận mắt chứng kiến thấy dân các nước họ sống phong lưu khá giả, trình độ dân trí cao vậy sao Mạnh không thấy tự thẹn với lương tâm rằng : Hồ Chí Minh, cả Mạnh cùng bầy lũ Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo cũng đội lốt người làm lãnh đạo mà để dân VN từ mọi rợ nguyên thủy rồi tiến tới nghèo nàn lạc hậu nhất thế giới vậy sao ?
Vậy mà Mạnh cùng bầy lũ Đảng CSVN lưu manh cẫn vô liêm sỉ cố thủ duy trì bảo lưu chủ trương chính sách chế độ làm “chủ nô độc tài phát xít ” của Hồ của Đảng CSVN lưu manh như thế.
Mạnh vô liêm sỉ cầm quyền lãnh đạo để dân nghèo đất nước nghèo rồi Mạnh ngửa tay nhận sự viện trợ của các nước trên thế giới khác nào Mạnh nhân danh một tổng bí thư Đảng CSVN lưu manh lại là kẻ ăn mày ăn xin ngửa tay nhận sự bố thí của các nước trên thế giới mà Mạnh không thấy nhục sao ? Mạnh không hề có một tý tính tự tôn dân tộc nào sao ?
Đất nước VN không có những mặt hàng công nghệ cao, điện tử, điện máy, máy móc kỹ thuật hiện đại, máy bay... để xuất khẩu tăng nhanh giá trị thặng dư cao cho đất nước mà chỉ xuất khẩu dạng cò con những mặt hàng thủ công như dệt may, mây tre đan, hạt thóc, hạt gạo, hạt điều , cà phê, con tôm, con cá ...không có giá trị thặng dư lớn thì bao giờ đất nước mới giàu có được. Ngược lại VN phải nhập khẩu rất nhiều máy móc tối tân cho công nghiệp y tế, cho công nghiệp, nông nghiệp, máy bay vv... với giá thành rất lớn thì thử hỏi số tiền thu được từ xuất khẩu của VN có đủ để nhập khẩu hay không ?
Nói chung suốt 78 năm có Đảng CSVN lưu manh là 78 năm dân VN bị Đảng CSVN lưu manh lừa đảo, lợi dụng, đàn áp ức hiếp bóc lột thậm tệ đến tận xương tủy. Với 78 năm tất cả dân VN một nắng hai sương phải nai lưng è cổ ra nuôi cả bầy lũ Đảng CSVN lưu manh ăn không ngồi dồi vô tích sự lại còn làm hại lớn cho đất nước, cho dân rồi quay cổ lại cắn dân liên tục suốt 78 năm trời.
78 năm Đảng CSVN lưu manh đưa dân tộc Việt Nam hết quay về với mọi rợ nguyên thủy lại quay về cảnh đói nghèo lạc hậu trên thế giới mức sống của dân rất thấp, nhiều hộ gia đình chỉ vay ngân hàng có hai hoặc ba triệu đồng thôi mà gần trục năm trời quần quật vật lộn với cuộc sống không kiếm đủ 2 hoặc 3 triệu để trả nợ ngân hàng vậy đó. Nông thôn VN vẫn nhiều nơi tiêu điều nghèo nàn 78 năm Đảng CSVN lưu manh làm hỏng con người VN bất cứ ai lên làm tổng bí thư CS VN cũng đều hư hỏng xấu xa cả từ Trường Chinh, Lê Duẩn, Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh... Nhiều người trong hệ thống Đảng CSVN lưu manh của nhà nứơc VN đều hư hỏng cả. Chỉ trái có mỗi bác Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư là tạm giữ vững được phẩm chất đạo đức thì Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo lại ám sát giết hại bác suýt chết. Còn bác Ngyễn Hữu Thọ, Cô Ba Định, bác Mười Hương, bác Trần Kiên, bác Trần Độ cũng có đạo đức phẩm chất như bác Nguyễn Văn Linh thì Đảng CSVN lưu manh ép các bác các cô phải từ chức để cho bầy lũ mang bản chất lưu manh giặc cỏ nắm quyền trị vì dân chúng.
78 năm Đảng CSVN làm hỏng đất nước VN, đất nước Việt Nam bị mất dần diện tích đất và biển cho Tàu chỉ vì sự ngu hèn cả bầy lũ Đảng CSVN lưuu manh vô nhân đạo vậy đó. Đảng CSVN lưu manh làm mất đi lẽ sống thiêng liêng của dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống ngoại xâm
78 năm Đảng CSVN lưu manh làm hỏng xã hội Việt Nam. Vì Đảng CSVN luôn quay quắt tráo trở, o ép dân mọi mặt trong cuộc sống đời thường để dân đói nghèo khổ sở, để dân thấp về mặt dân trí sinh ra nhiều tệ nạn xã hội như trộm cắp, cờ bạc, đĩ điếm, cướp giật sinh ra nghiện hút, siđa vv.....
78 năm Đảng CSVN Việt Nam lưu manh xây dựng và phát triển đất nước chẳng ra làm sao cả, đơn cử như Hà Nội thủ đô của cả nước mà tổng thể kiến trúc xây dựng Hà Nội không ra một hàng lối gì, nhà cao tầng, nhà thấp tầng đan xen lộn xộn, những khu định cư mơí mở đường xá vẫn theo lối mòn hẹp tỉ ti. Giao thông tuy có mở rộng hơn nhưng mới chỉ mở một vài trục đường lẻ tẻ chứ không phải mở rộng hết cả hệ thống giao thông trong nước. Mức mở rộng đường giao thông không có tầm nhìn lớn sau này nên tuy đường mở rộng và mức sống của dân VN vẫn mới chỉ là xe máy làm phương tiện mà thôi cũng vẫn ùn tắc đường liên tục rồi. Hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng của nông thôn còn tồi tệ hơn nhiều. Cấp thoát nước ở nhiều đô thị và thành phố lớn rất dở cứ mưa là ngập lụt tràn lan nhiều nơi...
Đảng CSVN lưu manh lãnh đạo và chỉ đạo các cấp các nghành không ra làm sao cả rất lủng củng lộn xộn đến mức độ các cấp địa phương lợi dụng sự bất tài của trung ương càng gia tăng dàn áp ức hiếp dân để bóc lột cướp đoạt của dân nhiều hơn.
78 năm Đảng CSVN lưu manh không có khả năng, không có tài năng và cũng không đủ đức độ để hướng cho học sinh, sinh viên VN học với tư duy biết sáng tạo biết tổng hợp kiến thức, biết thông thạo nhiều ngoại ngữ, biết luân thường đạo lý như ngành giáo dục của các nước phát triển trên thế giới mà chỉ nhồi sọ cho học sinh, sinh viên là phải yêu Đảng CSVN lưu manh mà thôi.
Xét về mặt phẩm chất đạo đức, tài năng trí tuệ của cả bầy lũ Đảng CSVN lưu manh là bầy lũ giặc cỏ cùng đinh vô học lại lưu manh lừa đảo bất tài thất đức theo kiểu cha truyền con nối mà lên cầm quyền trị vì dân chúng. Cho nên vẫn ở trạng thái Đảng CSVN lưu manh ngày nay không có đủ phẩm chất đạo đức, không có tài năng trí tuệ để phát triển đất nước mà vẫn cứ duy trì dân tộc VN muôn thuở không thể tiến lên được. Nếu cứ như đường lối hiện nay thì đất nước VN không thể phát triển tốt đẹp phồn vinh thịnh vượng được mà còn có nguy cơ bị bon Tàu ô xâm chiếm đô hộ VN lần nữa.
Vì đất nước phồn vinh thịnh vượng, vì lẽ sống thiêng liêng của cả dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm, nên cả bầy lũ Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo hãy tự động sống làm người có chút ít liêm sỉ để tự xóa bỏ ngay cái Đảng CSVN lưu manh này đi để khỏi hại nước chẳng có ngày nhân dân sẽ đào mồ quốc mả chôn sống cả cái Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo. Và nhất định lịch sử VN sẽ phỉ báng Đảng CSVN lưu manh đến muôn thuở mai sau đó.
Nữ công dân Việt Nam tố cáo : Phạm Khánh Toàn – 58 tuổi
Địa chỉ số nhà 12, ngõ 563, đường Giải Phóng, Giáp Bát - Hà Nội
http://anhduong.net/1-tintuc/2008/LoiToCaoCuaPhamKhanhToan.htm
Bản chất thành phần của Đảng CSVN lưu manh là bầy lũ giặc cỏ, là lũ cùng đinh vô học nên đầu chúng
Bà Phạm Khánh Toàn 58 tuổi. Địa chỉ nhà ở : số 12, ngõ 563,
Đường Giải Phóng, phường Giáp Bát, quận Hoàng Mai, TP - Hà Nội. (Tác giả bài viết)
ngắn tủn và chỉ nghĩ được mỗi một điều đơn giản là giành quyền lực với đủ mưu mô, thủ đoạn bằng mọi giá ngu hèn nhằm duy trì bảo lưu quyền lực làm chủ nô độc tài phát xít. Còn với đất nước, với dân tộc Đảng CSVN lưu manh lại ngu và đểu tận cùng của sự đểu cáng làm hại lớn cho đất nước VN, cho dân tộc VN chúng ta…
Đó là việc Đảng CSVN lưu manh đã ngu lâu ký ngay 2 hiệp ước Biên giới Việt Trung ngày 30/12/1999 để giao 1694 km vuông đất trên biên giới cho Trung Quốc và hiệp ước phân định vịnh Bắc Bộ ngày 25/12/2000 giao 11000 km vuông lãnh hải cho cũng cho Trung Cộng. Đây là việc làm ngu hèn tột độ của Đảng CSVN lưu manh đã làm mất đi lẽ sống thiêng liêng của dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm.Vì sao là người thảo dân, dân đen tôi lại ngang ngược xỉ vả cả cái Đảng CSVN lưu manh đến thậm tệ như vậy, vì tôi là một dân thường, một phụ nữ lại tàn tật tay không dám ngang ngửa đấu đá với tất cả Đảng CSVN lưu manh cướp đất của má tôi đến thắng lợi huy hoàng. Cuối cùng Đảng CSVN lưu manh phải chịu thua cuộc không cướp được tấc đấc nào của má tôi….
Vậy mà Đảng CSVN lưu manh dương dương tự đắc với cả thế giới rằng: Hồ Chí Minh cùng Đảng CSVN lưu manh “tài giỏi” lắm đã lừa đảo cả một dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm mà Đảng CSVN lưu manh lại qua mắt dân VN để đi đêm “ Tàu ô cộng sản ” làm việc vụng trộm với chúng để giao 1694 km đất biên giới và 11000 km lãnh hải cho Tàu Cộng đại Hán. Việc này làm này là nỗi ô nhục muôn kiếp không rửa sạch cho đảng cướp CSVN !!!.
Bây giờ tôi xin kể tỉ mỉ chi tiết việc Đảng CSVN lưu manh cướp đất của má tôi không thành cho cả nhân loại trên thế gian này rõ ngọn nguồn câu chuyện nhé.
Đất của ba má tôi nằm trên địa phận Giáp Bát gần trục đường quốc lộ 1A. Vào năm 1986 nhà nước CSVN mở rộng đường quốc lộ này, nên 756 mét vuông đất của má tôi bị mất một phần cho việc mở rộng đường, phần còn lại trở thành mặt đường lại là trục đường chính quốc lộ 1 A đẹp đẽ đầy lợi nhuận. Bầy lũ Đảng CSVN lưu manh tham lam, tối mắt tối mũi đã dùng quyền lực của Đảng CSVN lưu manh cậy thế đàn áp gia đình má con tôi mưu toan cướp đất Giáp Bát. Ngày 19/6/1987 tên Nguyễn Trọng Thanh phó chủ tịch quận Hai Bà Trưng thay mặt Đảng CSVN lưu manh ký ngay một cái quyết định phá nhà của má tôi đang ở. Mấy tháng sau khoảng sau ngày quốc khánh của CSVN, mùng 2/9/1987 và sau ba ngày Đảng CSVN lưu manh họp bàn mưu tính kế phá nhà cướp đất của má tôi xong, là Đảng CSVN lưu manh mang một lực lượng lớn khoảng sáu, bảy trăm tên công an mang sắc phục súng ống chỉnh tề và hàng trăm lũ chính quyền các cấp từ thành phố xuống phường, các ban bệ các ngành giao thông tư pháp vv…. dải dày đặc suốt từ Cống Trắng tới cổng làng Tám khoảng chừng 500m chiều dài trục đường Giáp Bát. Và còn rất nhiều xe ôtô các loại, như xe cứu thương xe cứu hỏa, xe cảnh sát, xe thùng bịt kín, xe ben, xe tải vv…được chúng điều đến nữa. Chỉ thiếu mỗi xe tăng thiết giáp là Đảng CSVN lưu manh không huy động đến phá nhà cướp đất của má con tôi thôi.
Đảng CSVN lưu manh huy động một lực lượng lớn đồ sộ hùng hậu để đàn áp dân lành trong tay không tấc sắt. Vậy mà trong khi đó gia đình má tôi chỉ vẻn vẹn chỉ có 5 người. Má tôi thì gần 70 tuổi, còn tôi thì bị tàn tật, cậu em trai sát tôi bị bại liệt cả hai chân không đi được, 2 cô em gái đang bước sang tuổi thanh niên. Đảng CSVN lưu manh chúng bắt đầu ngăn cản nội bất xuất, ngoại bất nhập để dân tình hàng xóm láng giềng làng nước không ai tới giúp má con tôi được. Tôi trực tiếp dùng dằng đấu lý về pháp luật với tên Thế Phong chủ tịch phường Giáp Bát nhằm kéo dài thời gian để kịp cho người có quyền lực và có lương tri tới kịp thời cứu giúp má con tôi khỏi bị phá nhà. Nhưng bầy lũ Đảng CSVN lưu manh chúng cố tình phá nhà cướp đất của má con chúng tôi. Chúng không cho kéo dài thời gian thêm nữa và chúng tiến hành thu giữ tài sản đồ đạc gom vào UBND phường để chúng phá nhà má con tôi tan hoang bằng sức mạnh vũ lực rất thô bạo.
Trời sui sao khiến vậy, thương má con tôi cảnh mẹ già, con tàn tật nên bí thư thành ủy Nguyễn Thanh Bình điện ngay xuống quận Hai Bà Trưng xem xét việc Đảng CSVN lưu manh phá nhà cướp đất của má tôi ra sao để báo cáo lại cho thành ủy biết.
Ông Dương bí thư quận ủy cộng sản quận Hai Bà Trưng phải thân trinh xuống tận số nhà 87 phố Làng Tám ( ngày nay là số nhà 587 và 589 đường Giải Phóng, Giáp Bát, quận Hoàng Mai, Hà Nội ) để chứng kiến thực hư cảnh Đảng CSVN lưu manh huy động lực lượng lớn đến đàn áp ức hiếp 5 má con tôi đều cảnh đàn bà và có tôi là phụ nữ bị tật nguyền để phá nhà cướp đất lúc đó. Năm má con tôi bị quây lại giam ngồi trong sân nên không tận mắt thấy ông Dương bí thư quận ủy cộng sản Hai Bà Trưng xuống, mà chỉ đột nhiên thấy lũ hung hăng đang phá nhà dừng hết cả lại. Còn tất cả bầy lũ Đảng CSVN lưu manh chạy toán loạn như vịt cả lượt, rồi bỗng vắng tanh không người. Lúc đó dân xóm giềng sang báo cho má con tôi biết ông Dương bí thư quận ủy Hai Bà Trưng xuống quan sát tình hình. Lúc đó nhà chúng tôi mới bị chúng phá tan được cả mái nhà, má con tôi chắc mẩm sẽ lợp lại mái để ở. Vậy mà khi ông Dương quay về quận, bầy lũ Đảng CSVN lưu manh lại tiếp tục quay lại phá nốt nhà của mà tôi tới chân móng rồi chúng mới chịu ra về, chiều hôm đó công an CS quận Hai Bà Trưng bắt anh trai tôi lên quận vô cớ vì anh tôi ở nơi khác mà không có mặt tại nhà má chúng tôi khi chúng cướp phá. Là người dân lại là phụ nữ tàn tật tôi không đủ sức chống đỡ lại với lực lượng lớn hùng hậu đồ sộ của bầy lũ Đảng CSVN lưu manh ngay lúc đó chỉ còn biết chờ cho xong việc ngày hôm phá nhà đó là hôm sau tôi “nhẩy xếch” tố cáo lên trên Trung ương Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo đã dùng lực lượng lớn đồ sộ hùng hậu để đàn áp ức hiếp 5 người vừa già vừa tàn tật lại là phụ nữ để tịch thu tài sản phá nhà cướp đất, bắt người vô cớ gây ra cho dân cảnh “màn trời chiều đất” cho má con tôi.
May sao sự việc của má tôi xảy ra lại rơi vào đúng dịp bác Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư Đảng CSVN với khẩu lệnh “Những việc cần làm ngay", cô Ba Định, bác Nguyễn Hữu Thọ phó chủ tịch Hội đồng nhà nước ( phó chủ tịch nước ), bác Trần Kiên trưởng ban kiểm tra trung ương Đảng, bác Mười Hương trưởng ban nội chính trung ương, bác Trần Độ ra tay cứu giúp giải oan cho má con tôi. Vì thế nên quận Hai Bà Trưng đã phải xin lỗi anh tôi bằng văn bản và ngày 23/9/1990 sẽ bắt chủ tịch thành phố Hà Nội thay mặt Đảng CSVN lưu manh phải ra quyết định số 3484 DS/UB công nhận quyền sống ở của má tôi ở số nhà 87 phố Tám là hợp pháp được tồn tại trên đất đó. Kể từ ngày 23/8/1990 Đảng CSVN lưu manh không dám đem lực lượng xuống đàn áp dân Giáp Bát để phá nhà cướp đất như những lần trước nữa, nhưng chúng quay vào đàn áp và ức hiếp bản thân tôi đủ mọi đường suốt từ năm 1990 cho đến tận ngày nay 2008 này hòng cướp đất Giáp Bát lần nữa. Chúng ép buộc tôi phải bán hoặc đổi đất Giáp Bát của má tôi ở cho chúng thực hiện chính sách phá nhà của má tôi rồi Đảng CSVN lưu manh lớn tiếng rằng bà Cao Lệ Thu ( tức má tôi ) thua kiện phải phá nhà là lũ Đảng CSVN lưu manh sẽ cướp không đất của dân Giáp Bát - Cống Trắng đến cổng làng Tám rồi. Đảng CSVN lưu man cướp đất theo kiểu cuốn chiếu xuống tận đường khoảng chừng 1 km chiều dài trục đường 1A.
Thế nhưng tôi quyết không đổi, không bán đất của má tôi cho lũ Đảng CSVN lưu manh này. Thế là cả lũ Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo này đã và đang dùng mọi thủ đoạn dã man độc ác thậm tệ để đàn áp bản thân tôi mọi kiểu. Đảng CSVN lưu manh sai khiến bọn tay chân bên dưới cắt điện cúp nước của gia đình má tôi làm tất cả dân Giáp Bát cũng bị ảnh hưởng theo gia đình tôi. Đảng CSVN lưu manh lưu manh dùng trò ảo thuật làm cho vô tuyến nhà tôi bị nhiễu mất sóng. Thậm trí Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo sai khiến cả bọ lưu manh đầu gấu đời thường đâm vào xe tôi để tôi ngã lăn trên đường nhựa trước cổng trường Đại học Bách Khoa - Hà Nội ba vòng vv…. và nhiều vô kể các kiểu đàn áp ức hiếp dã man khác. Vậy mà cả cái Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo này vẫn không sao cướp nổi đất Giáp Bát với tôi. Nhưng cái Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo vẫn thường dương dương tự đắc là Đảng cầm quyền lãnh đạo cả một dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm mà Đảng CSVN lưu manh đầu óc như vịt lại ngu hèn đi đêm vụng trộm ký 2 hiệp ước biên giới Việt Trung và Vịnh Bắc bộ giao 1694 km vuông đất và 11000 km vuông lãnh hải cho Tàu Ô một cách mù quáng, nhục nhã.
Khi quân Tàu Cộng giết chết ngư dân Việt nam để cướp đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam cả cái Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo sợ bọn Tàu Cộng dúm tứ túc không dám có phản ứng gì với Tàu để bảo vệ dân VN vì thế nên tôi mới ngang ngửa xỉ vả cả cái Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo là thế. Cả cái Đảng CSVN lưu manh há miệng mắc quai rồi nên tất cả chúng thấy hành vi tàn ác, vô nhân đạo của bọn Trung Cộng mà không dám, nói gì về việc tôi xỉ vả Đảng CSVN lưu manh. Đấy là nói về chuyện giang sơn đất nước mà cả cái Đảng CSVN lưu manh ngu hèn vô nhân đạo làm hại đất nước.
Nói về tên Nguyễn Trọng Thanh phó chủ tịch CS quận Hai Bà Trưng là thủ phạm đã ký để phá nhà tôi năm ấy ( nay khu vực nhà tôi ở được gọi là quận Hoàng Mai) thì nhà riêng của nó là một biệt thự đẹp, sang trọng thời Pháp số nhà 13 thuộc ở vị trí ngã tư phố Hai Bà Trưng và Nguyễn Khắc Cần, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Sau đó khoảng năm 2004 hắn bán đi một đợt nhà lần đầu là hơn 10 tỷ nằm trong khuôn viên biệt thự, năm 2006 hắn bán nốt căn liền kề với giá 17 tỷ đồng VN, tất cả có số tài sản trên dưới 30 tỷ đồng VN thời giá năm 2006 trở về trước là tương đương với trên 2 triệu đô la Mỹ. Vậy thử hỏi các triệu phú Mỹ, Pháp, Nhật … có giàu có bằng những thằng quan cộng sản của đảng cướp này không ? Bây giờ tôi được biết gia đình nó chuyển lên gần Tây Hồ sống trong một Vila nguy nga tráng lệ hơn cung điện vua chúa thời trước.
Còn bây giờ tôi lại nói tiếp về Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo cùng Hồ Chí Minh cầm quyền lãnh đạo đưa dân tộc Việt Nam quay lại thời kỳ mọi rợ nguyên thủy và nghèo nàn lạc hậu nhất nhì trên thế giới từ năm 1946 tới nay nhé.
Đảng CSVN lưu manh đồng tình với Hồ Chí Minh đi sang Pháp nhằm giành quyền lực với vua Bảo Đại đầu năm 1946, từ đó chúng đã gây ra 2 cuộc chiến tranh với Pháp và Mỹ, thật không đáng có xảy ra làm cho dân VN máu chảy đầu rơi nhiều vô kể, máu chảy thành sông, xương chất thành núi. Lại còn cảnh Nam Bắc Việt Nam người cùng dân tộc tương tàn chém giết lẫn nhau để giành quyền lực cho ĐCSVN lưu manh mất hết cả đạo lý làm người, hủy hoại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam suốt một thời gian dài gần 30 năm.
Năm 1954 Hồ Chí Minh cùng đảng CSVN lưu manh vừa mới có quyền lực trong tay nhờ từ dân VN giúp cho, khi có được rồi vội quay lại cắn dân ngay trong đợt cải cách ruộng đất làm cho trên dưới 30 vạn người dân vô tội chết oan. Với 30 vạn người dân chết oan này cũng đã từng đóng góp cả sức người lẫn tiền của trong công cuộc giành quyền lực cho Hồ Chí Minh và Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo để chúng lên nắm quyền bính.
Hồ Chí Minh cùng Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo cướp hết tất cả ruộng đất của nông dân và cướp hết tất cả tài sản, nhà cửa, nhà máy công xưởng nơi thành thị
Hồ Chí Minh cùng bầy lũ Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo lừa hết tất cả dân VN từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng cho đến đồi núi phải làm công, làm nô lệ cho Hồ và cho Đảng CSVN lưu manh. Chúng không cho phát triển dân trí mà chúng đẻ ra chủ trương đường lối chính sách hà khắc, cay nghiệt dã man là “ ngu dân để trị dân ”. Chẳng thế mà tất cả dân VN sống như mọi rợ nguyên thủy vậy, đến nỗi ăn không đủ no, gạo thì gạo hẩm, gạo mốc, mặc dù không đủ ẩm, nhà ở như hang hũ ổ chuột chẳng ra nhà, điện thắp sáng không có, nước sạch trong sinh hoạt hàng ngày cũng không. Ngay TP - Hà Nội mang tiếng là thủ đô của đất nước mà chỉ có 36 phố phường là có điện của Pháp để lại cho dân dùng là có thôi còn xung quanh 36 phố phường tiến ra ngoại ô Hà Nội dân phải dùng đèn dầu thắp sáng, ăn uống nước giếng đất tự đào, rửa tay tắm giặt nước ao tù....
Năm 1986 bác Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư CSVN mới mở cửa để cởi trói cho dân chưa được bao lâu thì Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo lo sợ không gĩư được độc quyền « chủ nô độc tài phát xít » cho Đảng CSVN lưu manh. Cho nên Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo dùng thủ đoạn đê hèn ám sát bác Nguyễn Văn Linh ở bên CHDC Đức suýt chết. Hết nhiệm kỳ bác Nguyễn Văn Linh từ chức, tất cả các bác Nguyễn Hữu Thọ, Trần Kiên, Mười Hương cô Bá Định cũng từ chức. Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo lại đưa những tay đầu ngu như vịt dốt nát ngu xuẩn, nhưng có nhiều mưu mô thủ đoạn làm tổng bí thư Đảng CSVN lưu manh cầm quyền lãnh đạo trị vì dân, như Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh....lên nắm quyền cai trị dân.
Nói về Đỗ Mười là một tay nông dân vô học không có bất cứ một cái tài nào lên làm tổng bí thư CSVN. Đỗ Mười chỉ chăm chú tâm vào những việc cho bản thân y và con cái gia đình ăn cắp tiền tỉ làm giàu cho bản thân chứ không có tài để đưa đất nước phát triển lớn mạnh. Thậm trí Đỗ Mười còn là « học trò xuất sắc » của Hồ Chí Minh cũng đàn áp cướp bóc của dân không kém gì Hồ. Tên này biết quay quắt lừa đảo với cả thế giới để thế giới mất lòng tin vào đường lối mở cửa của Đảng CSVN lưu manh nên bị các nước họ mới cảnh cáo cho. Công trình Cửa hàng bách hóa tổng hợp Hà Nội bị bỏ hoang gần chục năm ngay giữa lòng trung tâm thủ đô, cái nhà to lớn nguy nga đẹp là thế của Pháp xây dựng để lại cho dân VN dùng thành đống đất hoang sơ gần cả chục năm trời. Chẳng là thế này : Đảng CSVN lưu manh quen với lối sống quay quắt lừa đảo với dân VN thế là cũng lừa đảo với cả các đầu tư nước ngoài. Nhiều nước đầu tư xong mà đất nước không phát triển tiền chảy vào túi cá nhân của bầy lũ Đảng CSVN lưu manh. Nên thấy vậy nước ngoài họ ký hợp đồng với chính phủ Việt Nam xây dựng Bách hóa tổng hợp thành trung tâm siêu thị cao tầng lớn nhất Hà Nội. Họ chờ cho chính phủ CSVN phá xong tòa nhà cao tầng lớn nhất Hà Nội thành đống đất hoang sơ họ phá hợp đồng không xây dựng trung tâm siêu thị cho VN. Vậy rồi chính phủ VN phải tự xây dựng lấy thành cái nhà 3 tầng thấp lè tè như lô cốt ngay giữa trung tâm thủ đô Hà Nội. Đỗ Mười ngu dốt nên phá là chính, chỉ phá không xây, phá mọi mặt, đất nước lại xộc xệch tồi tệ đi xuống, phẩm chất đạo đức của bọn công quyền triều đại Hồ + đảng CSVN lưu manh tụt dốc thảm hại. Các quan đua nhau ăn cắp, quan lớn ăn cắp lớn, quan nhỏ ăn cắp bé. Đám quan lại CSVN từ Trung ương đến địa phương bảo nhau đua tranh ăn cắp và đàn áp ra sức bóc lột nhân dân...
Về Lê Khả Phiêu gốc vốn cũng là một thằng nông dân Thanh Hóa tham gia kháng chiến giành quyền lực cho Hồ mà lên làm tổng bí thư CSVN. Khả Phiêu u mê nghe theo Đảng CSVN lưu manh chỉ đạo rắp tâm triệt hại những nhà kinh doanh giỏi giàu có ở miền Nam, chẳng thế mà khi Lê Khả Phiêu vừa mới lên ghế tổng bí thư đã chỉ đạo ngay cho ngành tòa án buộc án gán tội cho các vụ Tân Trường Sanh và vụ Ép Cô Minh Phụng để tử hình họ và cướp tiền bạc, tài sản của họ nữa. Thật là một chế độ chính sách dã man độc ác thậm tệ của Đảng CSVN lưu manh đối với dân VN. Đảng CSVN lưu manh đã và đang thực hiện đúng di chúc của Hồ Chí Minh là “ ngu dân để trị dân ” không cho dân tài giỏi phát triển giàu có. Chúng cố thủ đưa dân quay về thời kỳ đói nghèo lạc hậu để duy trì bảo lưu chế độ “ chủ nô độc tài phát xít của Hồ Chí Minh với Đảng CSVN lưu manh ”.
Với Trung Quốc thì Đảng CSVN lưu manh thật ngu hèn để mất đi lẽ sống thiêng liêng của dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm. Đảng CSVN lưu manh đã để cho Lê Khả Phiêu thay Đảng CSVN lưu manh ký ngay hiệp ước biên giới Việt Trung ngày 30/12/1999 giao cho 1694 km vuông đất biên giới cho Trung Quốc và Hiệp ước Vịnh Bắc bộ ngày 25/12/2000 giao 11000 km vuông lãnh hải cho Trung Quốc để đất nước VN mất dần diện tích đất và biển cho Trung Quốc một cách ngu hèn tột độ. Cả thế giới phải phẫn nộ và phỉ báng với thái độ, việc làm ngu xuẩn hèn hạ của Đảng CSVN lưu manh. Nước Mỹ phải treo cờ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu để phỉ báng Đảng CSVN vừa lưu manh lại ngu hèn.
Còn về Nông Đức Mạnh con rơi của Hồ Chí Minh mang đặc gien Hồ lên làm tổng bí thư CS cầm quyền lãnh đạo cũng chẳng có điểm gì thông minh xuất chúng để đưa đất nước tiến lên được. Ngược lại Mạnh có chút ít văn hóa hơn Hồ là bố Mạnh nên có phần Mạnh còn lưu manh hơn Hồ, lừa đảo nhân loại siêu nghệ hơn bố của Mạnh. Đó là khi Mạnh đắc cử vào ghế tổng bí thư CSVN lần thứ hai Mạnh thay đổi ngay bộ máy Trung ương, Mạnh đưa những người có chút ít trong sạch lên thay những phần tử có vết nhơ bị dân phát hiện như Nguyễn Minh Triết thay Trần Đức Lương, Nguyễn Phú Trọng thay Nguyễn Văn An, Nguyễn Tấn Dũng thay Phan Văn Khải vv... Mạnh làm việc này là để phô trương với nhân loại, rằng bộ máy lãnh đạo của Trung ương cộng sản Việt Nam đã thực sự là người trong sạch. Nhưng thực tế Mạnh đưa họ lên chỉ làm bù nhìn coi dưa vậy thôi, còn Mạnh lấy quyền lực Đảng cầm quyền. Mạnh khống chế hết thảy mọi người phải tuân thủ theo quỹ đạo của Đảng CSVN lưu manh sai khiến. Quỹ đạo của Đảng CSVN lưu manh vẫn là phương thức không phát triển dân trí “ngu dân để trị dân” cốt để duy trì bảo lưu chế độ “Chủ nô độc tài phát xít” của Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo này. Chẳng thế mà Mạnh lớn tiếng hô hào toàn Đảng toàn dân sống và làm việc theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh của bố hắn.
Về tư tưởng Hồ Chí Minh là một tư tưởng bệnh hoạn của một kẻ nghèo kiết xác cùng đinh muốn nổi loạn dành quyền lực đổi đời cho bản thân và có quyền lực bắt tất cả hết thảy mọi người dân sống nghèo khổ cùng cực như Hồ khi xưa cho bõ tức cảnh nghèo khổ của bản thân Hồ mà thôi, còn y thì không cần nghĩ đến đất nước ra sao với cảnh VN nghèo nàn lạc hậu nhất thê giới !!!
Bản chất đạo đức Hồ thật đồi bại dã man hơn ác thú. Hồ Chí Minh làm tình với Nông Thị Xuân có con với Nông Thị Xuân vậy rồi Hồ cũng còn dã tâm giết chết Nông Thị Xuân và Nông Thị Vàng là chị gái Nông Thị Xuân để bịt đầu mối. Còn đứa con của Hồ với Nông Thị Xuân là Nguyễn Tiến Trung, thì Hồ bỏ rơi bỏ vãi cho Vũ Kỳ người hầu cận của Hồ nuôi. Với dân cả nước Hồ lừa đảo lợi dụng để dựa nhờ vào sức mạnh cuả toàn dân mà dành quyền lực cho bản thân khi có quyền lực Hồ quay cổ lại cắn dân luôn để trả ơn dân giúp Hồ dành quyền lực với vua Bảo đại vậy đó. Hồ còn đẻ ra cái chủ trương chính sách không phát triển dân trí mà Hồ “ngu dân để trị dân ” để giữ vững ngai vàng làm “chủ nô độc tài phát xít ”. Vậy tất cả nhân loại trên thế gian xem đạo đức của Hồ có được bằng cầm thú không ? Vậy mà Nông Đức Mạnh cậy quyền lực Đảng CSVN lưu manh hô hào và bắt ép dân chúng cả nước phải sống và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vậy đó ?!
Chúng ta hãy nhìn vào thực tế đất nước xã hội và cuộc sống của người dân VN trong suốt thời gian Mạnh làm tổng bí thư để đánh giá tài năng của Mạnh cầm quyền lãnh đạo ra sao nhé.
Suốt 2 nhiệm kỳ Mạnh làm tổng bí thư CSVN dân không hề thấy Mạnh có hướng đưa dân VN tự phát triển ngành nghề sản xuất công nghệ thông tin điện tử, máy móc kỹ thuật hiện đại, máy bay... để tăng lợi nhuận có giá trị thặng dư cao cho đất nước để giảm thiểu nhập khẩu những mặt hàng cao cấp này. Đây là một sự phát triển nội lực lớn mạnh cho VN như các nước phát triển tiên tiến trên thế giới, thế mà Mạnh lại cam tâm cúi đầu đưa dân VN đi lao động xuất khẩu ở các nước phát triển và mở cửa cho các nước vào VN đầu tư để dân là người làm công cho các đầu tư nước ngoài chỉ cốt để giảm đói nghèo trước mắt cho dân và thông qua dân lao động trong nước và dân lao động xuất khẩu bầy lũ Đảng CSVN lưu manh được hưởng nhiều lợi lộc về kinh tế mà thôi, khác nào mạnh bất tài chỉ vì miếng cơm manh áo đơn giản hàng ngày. Mạnh cam tâm cúi đầu cùng dân VN làm nô lệ cho các nước phát triển trên thế giới. Thế mà Mạnh cùng bầy lũ CSVN lưu manh vênh váo gọi là phát triển đất nước VN lớn mạnh và Công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước như thế này ư ?
Khi các nước vào đầu tư VN thì cả họ cùng bầy lũ Đảng CSVN lưu manh gây phiền phức nhiễu loạn nhiều mặt đời sống của dân VN, chẳng hạn như vụ thôn My Điền, xã Hoàng Mai, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang mới đây chẳng hạn.
Đảng CSVN lưu manh cắm đất cầy cấy của nông dân My Điền tỉnh Bắc Giang bán cho Tàu ô xây sân gôn. Đảng CSVN lưu manh thí cho người nông dân một cái giá bèo bọt 50 nghìn đồng một m2 ruộng, rồi thả nổi khi nông dân không còn ruộng đất cầy cấy. Nông dân My Điền không thể đáp ứng lòng tham vô nhân đạo của Đảng CSVN lưu manh được. Vậy là Đảng CSVN lưu manh thôn My Điền huy động một lực lượng lớn quân đội và công an đến đàn áp ức hiếp hàng trăm người nông dân thôn My Điền để cướp đất ruộng của người dân làm 60 người nông dân My Điền bị thương trong trận đàn áp cướp đất ruộng đó của Đảng CSVN phải vào bệnh viện và sau đó tất cả bị bắt vào trại giam Kế tỉnh Bắc Giang.
Nông Đức Mạnh thường xách cặp đi các nước, Mạnh tận mắt chứng kiến thấy dân các nước họ sống phong lưu khá giả, trình độ dân trí cao vậy sao Mạnh không thấy tự thẹn với lương tâm rằng : Hồ Chí Minh, cả Mạnh cùng bầy lũ Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo cũng đội lốt người làm lãnh đạo mà để dân VN từ mọi rợ nguyên thủy rồi tiến tới nghèo nàn lạc hậu nhất thế giới vậy sao ?
Vậy mà Mạnh cùng bầy lũ Đảng CSVN lưu manh cẫn vô liêm sỉ cố thủ duy trì bảo lưu chủ trương chính sách chế độ làm “chủ nô độc tài phát xít ” của Hồ của Đảng CSVN lưu manh như thế.
Mạnh vô liêm sỉ cầm quyền lãnh đạo để dân nghèo đất nước nghèo rồi Mạnh ngửa tay nhận sự viện trợ của các nước trên thế giới khác nào Mạnh nhân danh một tổng bí thư Đảng CSVN lưu manh lại là kẻ ăn mày ăn xin ngửa tay nhận sự bố thí của các nước trên thế giới mà Mạnh không thấy nhục sao ? Mạnh không hề có một tý tính tự tôn dân tộc nào sao ?
Đất nước VN không có những mặt hàng công nghệ cao, điện tử, điện máy, máy móc kỹ thuật hiện đại, máy bay... để xuất khẩu tăng nhanh giá trị thặng dư cao cho đất nước mà chỉ xuất khẩu dạng cò con những mặt hàng thủ công như dệt may, mây tre đan, hạt thóc, hạt gạo, hạt điều , cà phê, con tôm, con cá ...không có giá trị thặng dư lớn thì bao giờ đất nước mới giàu có được. Ngược lại VN phải nhập khẩu rất nhiều máy móc tối tân cho công nghiệp y tế, cho công nghiệp, nông nghiệp, máy bay vv... với giá thành rất lớn thì thử hỏi số tiền thu được từ xuất khẩu của VN có đủ để nhập khẩu hay không ?
Nói chung suốt 78 năm có Đảng CSVN lưu manh là 78 năm dân VN bị Đảng CSVN lưu manh lừa đảo, lợi dụng, đàn áp ức hiếp bóc lột thậm tệ đến tận xương tủy. Với 78 năm tất cả dân VN một nắng hai sương phải nai lưng è cổ ra nuôi cả bầy lũ Đảng CSVN lưu manh ăn không ngồi dồi vô tích sự lại còn làm hại lớn cho đất nước, cho dân rồi quay cổ lại cắn dân liên tục suốt 78 năm trời.
78 năm Đảng CSVN lưu manh đưa dân tộc Việt Nam hết quay về với mọi rợ nguyên thủy lại quay về cảnh đói nghèo lạc hậu trên thế giới mức sống của dân rất thấp, nhiều hộ gia đình chỉ vay ngân hàng có hai hoặc ba triệu đồng thôi mà gần trục năm trời quần quật vật lộn với cuộc sống không kiếm đủ 2 hoặc 3 triệu để trả nợ ngân hàng vậy đó. Nông thôn VN vẫn nhiều nơi tiêu điều nghèo nàn 78 năm Đảng CSVN lưu manh làm hỏng con người VN bất cứ ai lên làm tổng bí thư CS VN cũng đều hư hỏng xấu xa cả từ Trường Chinh, Lê Duẩn, Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh... Nhiều người trong hệ thống Đảng CSVN lưu manh của nhà nứơc VN đều hư hỏng cả. Chỉ trái có mỗi bác Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư là tạm giữ vững được phẩm chất đạo đức thì Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo lại ám sát giết hại bác suýt chết. Còn bác Ngyễn Hữu Thọ, Cô Ba Định, bác Mười Hương, bác Trần Kiên, bác Trần Độ cũng có đạo đức phẩm chất như bác Nguyễn Văn Linh thì Đảng CSVN lưu manh ép các bác các cô phải từ chức để cho bầy lũ mang bản chất lưu manh giặc cỏ nắm quyền trị vì dân chúng.
78 năm Đảng CSVN làm hỏng đất nước VN, đất nước Việt Nam bị mất dần diện tích đất và biển cho Tàu chỉ vì sự ngu hèn cả bầy lũ Đảng CSVN lưuu manh vô nhân đạo vậy đó. Đảng CSVN lưu manh làm mất đi lẽ sống thiêng liêng của dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống ngoại xâm
78 năm Đảng CSVN lưu manh làm hỏng xã hội Việt Nam. Vì Đảng CSVN luôn quay quắt tráo trở, o ép dân mọi mặt trong cuộc sống đời thường để dân đói nghèo khổ sở, để dân thấp về mặt dân trí sinh ra nhiều tệ nạn xã hội như trộm cắp, cờ bạc, đĩ điếm, cướp giật sinh ra nghiện hút, siđa vv.....
78 năm Đảng CSVN Việt Nam lưu manh xây dựng và phát triển đất nước chẳng ra làm sao cả, đơn cử như Hà Nội thủ đô của cả nước mà tổng thể kiến trúc xây dựng Hà Nội không ra một hàng lối gì, nhà cao tầng, nhà thấp tầng đan xen lộn xộn, những khu định cư mơí mở đường xá vẫn theo lối mòn hẹp tỉ ti. Giao thông tuy có mở rộng hơn nhưng mới chỉ mở một vài trục đường lẻ tẻ chứ không phải mở rộng hết cả hệ thống giao thông trong nước. Mức mở rộng đường giao thông không có tầm nhìn lớn sau này nên tuy đường mở rộng và mức sống của dân VN vẫn mới chỉ là xe máy làm phương tiện mà thôi cũng vẫn ùn tắc đường liên tục rồi. Hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng của nông thôn còn tồi tệ hơn nhiều. Cấp thoát nước ở nhiều đô thị và thành phố lớn rất dở cứ mưa là ngập lụt tràn lan nhiều nơi...
Đảng CSVN lưu manh lãnh đạo và chỉ đạo các cấp các nghành không ra làm sao cả rất lủng củng lộn xộn đến mức độ các cấp địa phương lợi dụng sự bất tài của trung ương càng gia tăng dàn áp ức hiếp dân để bóc lột cướp đoạt của dân nhiều hơn.
78 năm Đảng CSVN lưu manh không có khả năng, không có tài năng và cũng không đủ đức độ để hướng cho học sinh, sinh viên VN học với tư duy biết sáng tạo biết tổng hợp kiến thức, biết thông thạo nhiều ngoại ngữ, biết luân thường đạo lý như ngành giáo dục của các nước phát triển trên thế giới mà chỉ nhồi sọ cho học sinh, sinh viên là phải yêu Đảng CSVN lưu manh mà thôi.
Xét về mặt phẩm chất đạo đức, tài năng trí tuệ của cả bầy lũ Đảng CSVN lưu manh là bầy lũ giặc cỏ cùng đinh vô học lại lưu manh lừa đảo bất tài thất đức theo kiểu cha truyền con nối mà lên cầm quyền trị vì dân chúng. Cho nên vẫn ở trạng thái Đảng CSVN lưu manh ngày nay không có đủ phẩm chất đạo đức, không có tài năng trí tuệ để phát triển đất nước mà vẫn cứ duy trì dân tộc VN muôn thuở không thể tiến lên được. Nếu cứ như đường lối hiện nay thì đất nước VN không thể phát triển tốt đẹp phồn vinh thịnh vượng được mà còn có nguy cơ bị bon Tàu ô xâm chiếm đô hộ VN lần nữa.
Vì đất nước phồn vinh thịnh vượng, vì lẽ sống thiêng liêng của cả dân tộc VN có truyền thống bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm, nên cả bầy lũ Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo hãy tự động sống làm người có chút ít liêm sỉ để tự xóa bỏ ngay cái Đảng CSVN lưu manh này đi để khỏi hại nước chẳng có ngày nhân dân sẽ đào mồ quốc mả chôn sống cả cái Đảng CSVN lưu manh vô nhân đạo. Và nhất định lịch sử VN sẽ phỉ báng Đảng CSVN lưu manh đến muôn thuở mai sau đó.
Nữ công dân Việt Nam tố cáo : Phạm Khánh Toàn – 58 tuổi
Địa chỉ số nhà 12, ngõ 563, đường Giải Phóng, Giáp Bát - Hà Nội
http://anhduong.net/1-tintuc/2008/LoiToCaoCuaPhamKhanhToan.htm
Subscribe to:
Posts (Atom)