Thursday, August 21, 2008

Ngăn chặn Khủng hoảng - rfa

Nguyễn Xuân Nghĩa & Việt Long, RFA
2008-08-20

Sau mấy tháng biến động, tình hình kinh tế Việt Nam đã có vẻ lắng đọng từ mấy tuần qua với lạm phát giảm nhẹ trong bối cảnh dầu thô sụt giá trên thế giới và khiếm hụt cán cân vãng lai cũng giảm trong tháng Bảy.


Photo courtesy of VNExpress

Việc chính phủ bất ngờ tăng giá xăng dầu hôm 21-7 đã tạo ra cơn sốt tại nhiều thành phố lớn của Việt Nam.



Một chỉ dấu đáng chú ý là sau khi cho tăng giá xăng dầu tới hơn 30% vào ngày 21 tháng trước thì hôm 14 vừa qua, liên bộ Tài chính - Công thương đã cho lệnh giảm giá.

Trong hoàn cảnh có thể nói là tranh tối sáng đó, Diễn đàn Kinh tế có cuộc trao đổi sau đây cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa về tình hình kinh tế Việt Nam vào thời gian tới.

Quyết định hạ gía xăng?

Việt Long: Xin chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Trong chương trình hôm nay, chúng tôi đề nghị là ta sẽ cùng duyệt lại một số điều về kinh tế Việt Nam mà chưa được thấy rõ ràng, để tìm hiểu xem nguy cơ khủng hoảng kinh tế đã thuyên giảm hay chưa. Câu hỏi đầu tiên là ông nghĩ sao về quyết định mới đây là hạ giá xăng dầu. Quyết định ấy là đúng hay sai khi Việt Nam đang phải đẩy lui lạm phát? Mà vì sao lại chỉ giảm giá xăng dầu một phần của đà tăng giá tháng trước? Lý do nêu ra là để san xẻ phần nào với mức lỗ lã của các doanh nghiệp khi dầu thô lên giá trước đây, lý do ấy có đúng không?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Đây là loại câu hỏi rất khó có giải đáp ngắn gọn vì nhiều yếu tố mình cần xét đến. Khi dầu thô lên giá trên toàn thế giới, và vì dầu thô là nguyên liệu chế cất ra xăng dầu, xăng dầu tất nhiên phải lên giá. Ngược lại, khi dầu thô xuống giá, xăng dầu bán cho giới tiêu thụ tất phải giảm. Điều ấy, ai cũng có thể hiểu được. Vấn đề là ai sẽ quyết định về mức tăng hay giảm của giá xăng dầu?

Từ đợt tăng giá tháng Hai, khi dầu thô và xăng nhớt ở mọi nơi đều lên giá, Việt Nam lại duy ý chí cưỡng lại thị trường và dùng công quỹ bù giá để giữ nguyên giá xăng ở mức cũ.

Người ta có thể hiều được quyết định ấy vì vật giá đang leo thang và xăng nhớt mà lên giá thì sinh hoạt kinh tế sẽ bị ảnh hưởng. Điều người ta không hiểu được và hết tin cậy, khi Chính quyền Việt Nam khẳng định là không tăng giá, rồi đột ngột cho tăng giá, bình quân từ 30 đến 37% cùng một lúc.

Đấy là một chuỗi quyết định sai về cả kinh tế lẫn tâm lý và chính trị vì cho thấy Chính quyền không làm chủ được tình hình và có phản ứng lụp chụp, nhất thời.

Bây giờ, chỉ hơn ba tuần sau khi tăng giá, Chính quyền lại quyết định hạ giá, mà chỉ một phần, rồi giải thích là không thể hạ thêm vì giới tiêu thụ phải san xẻ phần nào gánh nặng lỗ lã của các doanh nghiệp xăng dầu. Người dân hiểu là phải chịu một phần gánh nặng lạm phát mà vẫn thấy ấm ách không hài lòng.

Việt Long: Nếu vậy thì nhiều thính giả có thể muốn biết rằng: buộc người dân phải gánh bớt gánh nặng của lạm phát có thể là hành động đúng về kinh tế chăng?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Câu trả lời thoả đáng nhất, theo tôi nghĩ, là Chính quyền phải có sự minh bạch trong từng quyết định kinh tế và đừng gồng mình bao biện những điều bất khả rồi giải thích quanh co khi tuột tay. Chính là cách ứng xử đó mới dễ gây ra khủng hoảng.

Một cách cụ thể thì Chính quyền không nên và không thể kiểm soát giá cả bằng cách ấn định giá bán tối đa của các mặt hàng và bất chấp quy luật cung cầu mà mình không kiểm soát nổi.

Duy trì chế độ kiểm soát ấy vẫn là biểu hiện của tinh thần bao cấp vì đẩy gánh nặng tài trợ số sai biệt giá cả cho ngân sách quốc gia hay cho doanh nghiệp và gây ra nạn tham nhũng và buôn lậu.

Ngược lại, khi giá nguyên liệu giảm thì Chính quyền cũng phải hạ giá thành phầm bán cho giới tiêu thụ. Cho nên quyết định hạ giá xăng dầu là quyết định đúng - và thực sự cần thiết - về kinh tế, nhưng vẫn sai về tâm lý và chính trị trong cách giải thích.


Hôm 31-6-2008, tài xế taxi Hà Nội đình công do giá xăng dầu tăng quá cao. Photo: AFP

Về kinh tế, vật giá gia tăng trên thế giới là điều bất lợi mà cũng bất khả kháng. Nhưng, về tâm lý và chính trị, giải thích rằng dân phải chịu lỗ một phần để san xẻ gánh nặng lỗ lã của doanh nghiệp là điều sai, nhất là khi các doanh nghiệp về dầu khí thông báo rằng họ đã bắt đầu có lời!

Hậu quả, người dân suy luận rằng Chính quyền không biết chủ động ứng phó, làm gì thì cũng ưu tiên bảo vệ quyền lợi của một số doanh nghiệp nhà nước, tức là tay chân của đảng. Sự suy luận ấy không sai và góp phần gây ra khủng hoảng trong niềm tin vào cơ chế kinh tế chính trị.

Hành xử của Chính quyền

Việt Long:
Nếu như vậy, theo ông phân tích thì trong vụ xăng dầu lên và xuống giá vừa rồi, Việt Nam nên ứng xử như thế nào thì hợp lý về kinh tế và về cả tâm lý?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi cho rằng trước tiên Việt Nam phải quan niệm lại vai trò của Chính quyền và Nhà nước trong sinh hoạt kinh tế, tức là phải đổi mới tư duy. Thứ hai, phải làm một cuộc cách mạng về thông tin - tức là đừng kiểm soát và trừng phạt báo chí như họ đang làm - để mọi người cùng biết thực tế của thị trường, như là giá có thể lên hay xuống và vì sao căn cứ trên thông tin của thị trường về tình hình xuất nhập, phí tổn và chế biến xăng dầu hầu.

Thứ ba, phải chấm dứt chế độ kiểm soát giá cả vì không ngăn được lạm phát mà còn gây hệ quả phụ là khan hiếm, bội chi ngân sách, buôn lậu và tham nhũng. Thứ tư, và kết hợp hai tinh thần thông tin minh bạch với vai trò vô tư hơn của nhà nước, phải để giá cả lên xuống theo thị trường, mà thông báo rõ ràng hầu mọi người có cơ sở tính toán về chuyện kinh doanh hay sinh hoạt.


Các nhà tài trợ quốc tế từng khuyến cáo Việt Nam cần phải có nhiều biện pháp mạnh và thích hợp để ứng phó với tình hình lạm phát gia tăng.

Một bước cần thiết và nên làm là lập ra cơ chế công bố tình hình giá cả khách quan của thị trường với biên độ cao thấp cho việc phân phối ở từng nơi. Nơi nào bán xăng dầu một cách tự do với giá thấp nhất thì sẽ được bà con chiếu cố. Khi ấy, giá có tăng thì dân cũng biết vì sao mà liệu bề tiêu thụ và giá có giảm thì họ cũng được lợi thay vì nghĩ rằng mối lợi lại trút vào doanh nghiệp hoặc tay chân của nhà nước.

Quốc tế khuyến cáo
Việt Long: Chúng ta bước qua phần khác. Thưa ông, đa số chuyên gia nước ngoài khuyên Việt Nam là cần gia tăng lãi suất ngân hàng để tăng thanh khoản, khuyến cáo đó đúng hay không với tình hình kinh tế như đã thấy hồi tháng Sáu, tháng Bảy?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Mình không thể trách các chuyên gia ngoại quốc khi họ nói đến nhu cầu phải nâng lãi suất. Khi lãi suất gia tăng, trước tiên tiền lời ký thác phải tăng và nhờ đó nâng sức huy động tiết kiệm của ngân hàng đồng thời hút bớt lượng tiền dư dôi ngoài thị trường để đưa vào sản xuất và kiềm chế được lạm phát.

Người ta không thể ngăn lạm phát nếu không nâng lãi suất lên khỏi số âm, tức là phải cao hơn mức lạm phát. Nhưng, doanh nghiệp nào có thể vay ngân hàng với lãi suất thực tế là quãng 25% chưa kể một hai phần trăm tiền hoa hồng như hiện nay? Vậy mà vấn đề ấy vẫn chưa là nguy kịch nhất. Nguy kịch hơn cả là người ta đi vay tiền với lãi suất rất cao mà chỉ để trả nợ chứ chưa để nâng sao sản xuất hầu có thể đẩy lui lạm phát.

Chúng ta đang thực tế chứng kiến hiện tượng đổ xô để tháo chạy với hậu quả là lãi suất sẽ còn tăng trong thực tế và đó là bài toán cho Việt Nam khi muốn định mức lãi suất tối đa như thị trường đang đồn đãi từ mấy ngày nay. Doanh nghiệp nào có thể vay với lãi suất tối đa ấy? Nông dân hay ngư dân thì chắc chắn là không.

Trong một kỳ trước, diễn đàn này có nói đến sự đào thải phũ phàng của thị trường và cảnh báo rằng nhiều ngân hàng sẽ phá sản, nhiều cơ sở bị sát nhập, may ra từ đó hệ thống tài chính ngân hàng có thể được kiện toàn.

Chuyện ấy đang và sẽ xảy ra khi các ngân hàng cảm thấy như bị nghẹn vì một phần là lãi suất gia tăng, phần kia là ngân hàng thiếu thanh khoản trong khi doanh nghiệp không vay được tiền cho yêu cầu sản xuất. Tôi cho là trong vài tháng sắp tới thôi, khủng hoảng ngân hàng có thể bùng nổ và lan qua nhiều ngành nghề khác. Tình hình từ nay đến cuối năm sẽ bi đát hơn người ta tưởng.

Việt Long: Nếu vậy, vì sao lại có hiện tượng như ông nói là doanh nghiệp khó vay tiền vì lãi suất ngân hàng quá cao và điều ấy càng dễ gây ra nguy sơ suy sụp sản xuất?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Vì nhiều bất toàn hay nhược điểm lưu cữu trong hệ thống tài chính và ngân hàng của Việt Nam và bây giờ mới là lúc gọi là "thị trường tính sổ", một cách ngặt nghèo và phũ phàng.

Các ngân hàng, nhất là ngân hàng thương mại của nhà nước, không làm đúng chức năng chuyển hoá tiền tệ là huy động tiết kiệm qua thu góp ký thác và chuyển thành tín dụng có lợi cho sản xuất.

Họ dùng tiền đó vào việc khác, như đầu cơ, và nay thu góp tiết kiệm để trả nợ. Nhưng, các ngân hàng quốc doanh vẫn còn tấm lưới đỡ của chính quyền nên sẽ lại thoát nạn, chứ các ngân hàng cổ phần của tư nhân mới dễ phá sản và kéo theo sự suy sụp của doanh nghiệp tư nhân.

Việt Long: Nói về sự bất công, nếu Việt Nam phải áp dụng loại biện pháp ‘thuốc đắng giã tật” thì liệu người dân có bị thiệt nhất vì lãi suất cao, sản suất sút giảm, làm nông gia hay ngư dân phá sản không?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Vấn đề của Việt Nam nó phức tạp hơn vậy. Nông gia trồng gạo hay ngư dân nuôi cá có thể bị khốn đốn vì thiếu tín dụng và lãi suất gia tăng, điều ấy là một thực tế. Nhưng, các đại gia có tiền và có cái thế độc quyền trong thu mua và phân phối thì không bị thiệt nặng như vậy.

Thay mặt nông gia, họ kêu đòi biện pháp đặc biệt, như lãi suất thấp, mà cuối cùng hưởng lợi nhất từ biện pháp đặc biệt đó và có khi còn chuyển tiền ra ngoài, chứ giới sản xuất thật ở bên dưới mới là thành phần lãnh họa.

Gánh nặng lạm phát
Việt Long: Câu hỏi cuối, thưa ông, liệu lạm phát còn bùng nổ không vì dường như hệ thống ngân hàng vẫn chưa thu hút được lượng tiền dư dôi được bơm ra từ năm ngoái?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi trộm nghĩ rằng lạm phát vẫn còn đó vì lượng tiền được bơm ra vẫn chưa được đông lạnh. Nó sẽ dội vào thị trường ngoại hối và đánh bung tỷ giá đồng bạc Việt Nam ra khỏi mức quá thấp hiện nay so với đồng đô la đang tăng giá.

Tài sản của các đại gia được chuyển ra ngoài sẽ để lại đối giá là đồng bạc Việt Nam bị mất giá, và đấy sẽ là một yếu tố gây ra khủng hoảng nữa. Chúng ta còn phải trở lại chuyện này trong nhiều kỳ tới.

Việt Long: Xin hỏi thêm là ai đang nắm nguồn tiền đó?Liệu đó có thể là những nhóm quyền lợi mà vẫn được che chở không?Và họ không bung ra có phải vì lợi ích chung của cả nền kinh tế hay không?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Nhìn lại cả cơ chế kinh tế thì có thể nói các doanh nghiệp nhà nước hay cơ sở kinh doanh có quan hệ với đảng và nhà nước thực tế giữ ưu thế trong cơ chế kinh tế và khuynh đảo chính sách kinh tế quốc dân.

Họ nắm giữ nguồn tiền rất lớn và không bị thiệt hại nặng như tư doanh. Giờ đây, khi họ tháo chạy vì thấy hết lời thì việc tháo chạy ấy như ta vừa nói, lại càng là yếu tố gây nên khủng hoảng.

http://www.doi-thoai.com/baimoi0808_321.html

No comments: