Carlyle A.Thayer (1)
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=2967
“… Tài liệu này tìm hiểu một khía cạnh ít ai chú ý tới về «chính sách ngoại giao đa phương», chính sách quốc phòng và tác động của nó trên chính sách ngoại giao của Việt Nam …”
1. Dẫn nhập
Tài liệu này tìm hiểu một khía cạnh ít ai chú ý tới về «chính sách ngoại giao đa phương», chính sách quốc phòng và tác động của nó trên chính sách ngoại giao của Việt Nam. Chính sách ngoại giao tại Việt Nam luôn luôn thuộc lãnh vực điều hành của Bộ Ngoại Giao và vị Bộ Trưởng thông thường có chân trong Bộ Chính Trị. Trong trường hợp ngoại lệ, một thành viên cao cấp của Bộ Chính Trị đảm nhiệm việc giám sát chính sách ngoại giao. Trái lại, Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng luôn luôn là thành viên của Bộ Chính Trị. Cho đến khoảng năm 1992 hầu như không có một cơ chế phối hợp hai bộ này ngoài Bộ Chính trị. Năm 1992 Hội Đồng Quốc Phòng và An Ninh Quốc Gia được thành lập trong đó những thành viện gồm có các bộ trưởng ngoại giao, quốc phòng và an ninh công cộng. Hội Đồng này chưa hẳn đã đóng vai trò phối hợp. Tóm lại, chính sách quốc phòng của Việt Nam, một mặt tuân hành những đường hướng chỉ đạo tổng quát của Bộ Chính Trị và Trung Ương Đảng, phần lớn do Bộ Quốc Phòng chỉ đạo.
Từ khi Chiến Tranh Lạnh chấm dứt, bối cảnh chiến lước của chính sách ngoại giao và quốc phòng của Việt Nam đã thay đổi rất nhiều. Những thay đổi khởi sự từ giữa và cuối thập niên 1980. Ít nhất hai yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tiến trình này. Yếu tố thứ nhất liên quan đến tình hình nội bộ của Việt Nam xuất phát từ khủng hoảng kinh tế xã hội lúc đó Việt Nam phải đương đầu. Yếu tố thứ hai do tác động bên ngoài và xuất phát tử «suy nghĩ chính trị mới» do Liên Bang Xô Viết đề xướng dưới sự lãnh đạo của Mikhail Gorbachev. Do sự hợp lưu của các ảnh hưởng nội bộ và ngoại tại, Việt Nam chuyển hướng từ chính sách ngoại giao hoạch định theo tiêu chí ý thức hệ sang khuôn khổ chính sách ngoại giao đặt trọng tâm nhiều hơn vào lợi ích quốc gia và ngoại giao thực tiễn. Các nhà phân tích Việt Nam chú trọng đến các lực lượng kinh tế tổng quát và tác động của biến chuyển khoa học và kỹ thuật và xem đó là yếu tố quyết định ổn định tổng thể (Nguyễn Mạnh Cầm, 1995 : 223 230 và Vũ Khoan, 1995 : 71 76). Sự tiến triển này có những bước tiệm tiến (Palmujoki : 2004) và khung ý thực hệ của quá khứ cũng không bị vứt bỏ hoàn toàn, những dấu vết của quá khứ vẫn còn thấy được ngày nay.
Tháng Chạp năm 1986, tại Đại Hội thứ 6 của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Việt nam áp dụng chính sách đổi mới. Chính sách này đặc biệt chú tâm đến việc khắc phục khủng hoảng kinh tế trong nước bằng cách áp dụng cải cách kinh tế xã hội và cho phép đầu tư ngoại quốc vào Việt Nam. Để thực hiện những mục tiêu này, Việt Nam phải giải quyết vấn đề Cam bốt. Nắm1987, Bộ Chính trị họp mật và thông qua nghị quyết Số 2, điều chỉnh chiến lược trong chính sách quốc phòng của Việt Nam «chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân». Kết quả của chính sách chiến lược mới của Việt Nam là Việt Nam rút toàn bộ lực lượng quân sự ra khỏi Lào và Cam bốt và giải ngũ (phục viên) binh sĩ. Quân đội Việt Nam hứa sẽ tài trợ để thực hiện những biện pháp này. Việc điều chỉnh chiến lược hệ trọng này đặt nền tẳng cho những thay đổi lớn trong chính sách ngoại giao.
Tháng 5 năm 1988, giới lạnh đạo đảng Việt Nam đồng ý lập một đường hướng mới về những mục tiêu của chính sách ngoại giao. Việc này được thể hiện qua Nghị Quyết số 13 của Bộ Chính Trị kêu gọi một «chính sách ngoại giao đa phương» (Chu Văn Chức 2004 : 4 7). Trọng tâm mới là «duy trì hòa bình, nương theo tình hình thuận lợi của thế giới» nhằm mục đích ổn định tình hình trong nước và đặt nền tảng cho bước ngoặc quan trọng trong mối liên hệ ngoại giao của Việt Nam. Bước xây dựng quan trọng kế tiếp trong « chính sách ngoại giao đa phương » diễn ra tại đại hội đảng lần thứ 6 vào tháng 6 năm 1991 (Vũ Khoan 1995 : 75). Những tài liệu soạn thỏa về chính sách được thông qua đại hội này ghi nhận Việt Nam sẽ « đa dạng và đa phương hoá tương quan kinh tế với tất cả các nước và tổ chức kinh tế … » Nói tóm lại, Việt Nam bây giờ tìm cách « làm bạn với tất cả các quốc gia’.
Tháng 9 năm 1989, Việt Nam đơn phương rút quân đội ra khỏi Cam bốt. Quân đội Nhân Dân Việt Nam, lên đến 1, 2 triệu người năm 1987, đã giảm kích thước qua việc giải ngũ 700.000 người trong vòng 5 năm sau đó. Tháng 10 năm 1991, Việt Nam ký hiệp định giải quyết chính trị, kết thúc sự xung đột với Cam bốt. Việt Nam không còn là một quốc gia hủi trên trường quốc tế, bị tẩy chay không được trợ giúp và thông thương. Tóm lại, việc giải quyết xung đột Cam bốt là do kết quả thay đổi mối tương quan ngoại giao trong vùng, biến sự xung dột giữa hai khối thành sự hợp tác giữa các nước Đông Nam Á.
Tháng 7 năm 1992 Việt Nam tham dự lần đầu tiên Hội Nghị thường niên Khối ASEAN (Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á) với tư cách quan sát viên. Việt Nam tham gia Hiệp Định Hữu Nghị và Hợp Tác 1976 của ASEAN tại hội nghị này. Khi tham gia như vậy, Việt Nam từ bỏ sử dụng võ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong mối bang giao nước ngoài và cam kết giải quyết bằng phương thức bất bạo động mọi xung đột có thể sẽ xảy ra. Hai năm sau, tại Hội Nghị ASEAN 1994, Việt Nam được mời gia nhập ASEAN. Và Việt Nam trở nên thành viên sáng lập Diễn Đàn Khu Vực ASEAN vào lúc đó. Đơn xin gia nhập ASEAN được chính thức chấp nhận vào cuối năm và tháng 7 năm 1995, Việt Nam trở thành hội viên thứ bảy của ASEAN.
Kể từ đại hội đảng lần thứ bảy năm 1991, Việt Nam đã thành công trong việc đa dạng hoá mối liên hệ ngoại giao. Có bảy tiến trình đáng chú ý: bình thường hoá bang giao với Trung Quốc (tháng 11 năm 1991), tái lập viện trợ phát triển của Nhật Bản (tháng 11 năm 1992), bình thường hoá bang giao với Hoa Kỳ (tháng 7 năm 1995), thành viên ASEAN (tháng 7 năm 1995), ký kết Hiệp Định Khung Hợp Tác với Hiệp Hội Châu Âu (17 tháng 7 năm 1995), thành viên Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế ( WTO) tháng 1 năm 2007 và thành viên không thương trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc (tháng Giêng 2008). Lần đầu tiên, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với tất cả những thành viên của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc và cùng không kém phần quan trọng với ba trung tâm quyền lực kinh tế chính của thế giới : Châu Âu, Bắc Mỹ và Đông Á. Năm 1989, Việt Nam chỉ có quan hệ ngoại giao với hai mươi ba quốc gia không cộng sản. Sau một năm gia nhập khối ASEAN, Việt Nam đã đẩy mạnh mối bang giao với 163 quốc gia.
2. Bang giao quốc phòng của Việt Nam, 1991 2004
Thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, Việt Nam duy trì bang giao quốc phòng với một số ít quốc gia; Trung Hoa, Liên Bang Xô Viết và những thành viên khác của Hiệp Ước Warsaw là những nước thân cận nhất (2). Viện trợ quân sự của Trung Hoa giảm hẳn sau khi Hiệp Định Hòa Binh Paris được ký năm 1973 và chấm dứt năm 1978 79 khi hai bên tranh chấp về vấn đề Cam bốt. Trung Hoa và Việt Nam giao chiến biên giới tháng Hai tháng Ba năm 1979 và chỉ bình thường hoá ngoại giao tháng 11 năm 1991. Thời Chiến Tranh Lạnh, Việt Nam cũng duy trì bang giao quốc phòng với/hoặc những mối liên lạc với một số ít quốc gia thân hữu trong đó có Lào, Cuba, Ấn Độ, Cam bốt, Miến Điện, Nam Duong và Nam Tư (Yougoslavia). Vào năm 2004, theo tuyên bố của Bộ Quốc Phòng Việt Nam, Việt Nam đã thiết lập bang giao quốc phòng với hơn sáu chục quốc gia (Quân Đội Nhân Dân, tháng Mười Hai, 2003). Tổng số ba mươi bốn tùy viên quân sự được chính thức cộng nhận tại Việt Nam, trong khi đó Việt Nam phái hai mươi bốn tùy viên ra nước ngoài (Thông Tấn Xã Việt Nam, 29 tháng Mười Một, 2004).(3)
Trong bài này danh từ «bang giao quốc phòng» dùng để chỉ mối liên hệ quốc phòng chính thức giữa Bộ Quốc Phòng Việt Nam và đối tác ngoại quốc, chẳng hạn như Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ (4). Bang giao quân sự được thiết lập qua việc trao đổi phái đoàn, nhìn nhận tùy viên quân sự, chương trình hợp tác quốc phòng, và thỏa hiệp về buôn bán trang bị và vũ khi và dịch vụ bảo trì. Trong thời gian từ tháng Giêng 1990 cho đến tháng 12 năm 2006, Việt Nam đã trao đổi 364 phái đoàn quốc phòng cao cấp với bốn mươi hai quốc gia (5). Để tiện cho việc phân tích, những phái đoàn này có thẻ chia làm năm loại chính : cấp Bộ (MND), Tổng Tham Mưu Trưởng (Chief of the General Staff –CGS), cấp lãnh đạo của Tổng Cục Chính Trị (General Political Departement GPD), cấp lãnh đạo Tổng Cục Hậu Cần hoặc tương đương (General Logistics Department GLD) và Cục Trưởng Bảo Quản lục quân, thủy quân và không quân (Biểu đồ 1).
Biểu đồ 1: Các chuyến công du cấp cao 1990 2004
cột màu nhạt: khách đến VN – cột xanh đậm: đoàn VN thăm nước ngoài
Cộng với những phái đoàn cao cấp này, thời gian từ 1990 đến 2004 Việt Nam đã tiếp đón ít nhất 31 phái đoàn đại diện cho các đồng nghiệp ngoại quốc và các trường quốc phòng của chín nước (6). Giữa 1990 và tháng 7 năm 2007, Việt Nam tiếp đón 58 thuyền khách của 16 quốc gia.
Trong số 364 trao đổi viếng thăm cao cấp, Việt Nam tiếp nhận 207 phái đoàn và gởi đi 157 phái đoàn ra nước ngoài. Khi nhịp độ trao đổi cao cấp đuợc diễn thành số ( tổng cộng con số phái đoạn tiếp nhận và gởi đi cho đến cuối năm 2004, ba quốc gia chiếm 1/3 tất cả các phái đoàn : Lào (40 trao đổi), Trung Hoa (33 trao đổi) và Thái Lan (26 trao đổi). Hai phần ba còn lại gồm có : Căm bốt (20), Ấn Độ (16) ; Phi Luật Tân và Nga (13) ; và Hoa Kỳ (11) ; Pháp, Nam Dương và Tân Gia Ba (10 lần mỗi nước) ; Cuba và Nhật Bản (mối nước 9 lần) (7) ; Úc Đại Lợi (8), Bắc Triều Tiên, Nam Triều Tiên và Mã Lai (7 lần trao đổi mỗi nước) ; Ý Đại Lợi, Miến Điện và Ukraine (6 lần trao đổi mỗi nước) ; và Ba Lan và Slovakia (4 lần trao đổi mỗi nước).
Giữa những năm 1990 và 2004, Việt Nam tiếp đón ba mươi bốn phái đoàn cấp bộ trưởng của 16 quốc gia. Đứng đầu danh sách các vị khách đến Việt Nam là các bộ trưởng quốc phòng của Lào (7 lần thăm viếng), Thái Lan (5 thăm viến) và Cam Bốt (3 thăm viếng). Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam đã thực hiện 40 chuyến công du sang 20 quốc gia trong cùng một thời kỳ. Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam thăm viếng thường nhất Lào (5 lần) và Trung Hoa (4 lần). Trước khi Việt Nam gia nhập ASEAN, Hà Nội tiếp đón các bộ trưởng quốc phòng của Căm Bốt, Nam Dương, Lào và Cộng Hòa Slovak. Đồng thời lúc đó, bộ trưởng quốc phòng Việt Nam thăm viếng Trung Hoa, Nam Dương, Bắc Triều Tiên, Lào, Mã Lai, Miến Điện và Phi luật tân.
Thời gian sau khi giải quyết xung đột với Cam Bốt, người ta chứng kiến đà phát triển mạnh trong mối liên lạc cấp bộ trưởng. Việt Nam phục hồi lại mối liên hệ quốc phòng với các « đồng minh truyền thống » chẳng han như Liên Bang Nga, Belarus, Bulgaria, Cộng Hòa Czech, Ba Lan, Cộng Hòa Slovak và Ukraine. Về phía Đông Bắc, Việt Nam trao đổi phái đoàn cấp bộ với Trung Hoa, Nhật Bản và Nam Triều Tiên. Đáng chú ý nhất là việc trao đổi những phái đoàn của những quốc gia gọi là Tây phương : Úc Đại Lợi, Áo, Bỉ, Phần Lan, Pháp, Đức, Ý, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ. Cộng với mối liên hệ lâu đời với Cuba và Ấn Độ, Việt Nam cũng đã khai triển những mối liên hệ cấp bộ tại Châu Phi (Algeria và Nam Phi) và Châu Mỹ La Tinh (Brazil).
Khi nhìn các dữ kiện về những trảo đổi cấp cao trên bình diện thời gian (xem biểu đồ 2), chúng ta thấy rõ năm 1994 đánh dấu sự khởi đầu thực sự của bang giao quốc phòng. Chúng ta thấy khuynh hướng chung kể từ đó con số các phái đoàn quốc phòng cấp cao đến Việt Nam đã gia tăng một cách đều đặn và đạt cao điểm vào những năm 2001 và 2003. Có một sự giảm sút đáng chú ý trong việc trao đổi phái đoàn vào những năm 1995 và 2003, điều này có lẽ phẩn ánh những điều kiện kinh tế khó khăn của Việt Nam, tiếp theo đó là khủng hoảng tiền tệ tại Châu Á , đã làm cho những sinh hoạt cộng tác quốc phòng trong vùng giảm xuống toàn bộ. Con số phái đoàn Việt Nam gởi đi ngoại quốc đã phản ánh nhưng lại theo sau khuynh hướng tổng quát đi lên của các phái đoàn cao cấp được Việt Nam tiếp đón.
Cần chú ý những trao đổi phái đoàn đại diện cho Tổng Cục Chính Trị (GPD) chỉ diễn ra giữa những nước xã hội chủ nghĩa. Con số trao đổi cao nhất trong phái đoàn GDP được thực hiện với Lào (44% tồng số) và Trung Hoa (29%)
Phạm trù Hậu Cần là phần phái đoàn linh tinh ở cấp bộ. Phạm trù này phản ánh cơ cấu tổ chức của Việt Nam trong đó Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Hậu Cần cũng là thứ trưởng Bộ Quốc Phòng. Những phái đoàn ngoại quốc do Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Hậu Cần tiếp đón cũng được đặt vào loại này. Phạm trù Hậu Cần cũng bao trùm những trao đổi giữa cục liên hệ nước ngoài (external relations department – ERD) của các cơ quan thuộc bộ quốc phòng và những nhóm khác chẳng hạn như khoa mật mã (Lào) và huấn luyện quân sự (Nga).
Phạm trù thứ năm của những phái đoàn cao cấp bao gồm những trưởng ban ( lục quân, thủy quân và không quân). Một lần nữa, cần lưu ý các lực lượng quốc phòng không sắp xếp theo cùng cơ cấu này. Ví dụ Hoa Kỳ có một số các cấp chỉ huy tác chiến phụ trách vùng địa lý trách nhiệm, như Chỉ Huy Thái Bình Dương (Pacific Command – PACOM). Chỉ Huy Trưởng PACOM của Hoa Kỳ ( trước đây là CINCPAC) được liệt vào loại Tổng Cục Trưởng Hậu Cần cũng như các cấp chỉ huy của những hạm đội Nga và Pháp. Các dữ liệu cho thấy sự không cân bằng rõ rệt trong số những trao đổi qua lại. Giữa những năm 1990 và 2004, Việt Nam đón nhận bốn mươi phái đoàn trong loại Tổng cục Hậu Cần trong khi đó chỉ gởi đi ngoại quốc chín phái đoàn.
Việc trao đổi các phái đoàn quốc phòng cao cấp được dùng với nhiều mục đích khác nhau trong đó có việc bày tỏ thiện chí, thăm viếng ngoại giao của những viên chức mới nhậm chức, đối thoại về chiến lược và một số sinh hoạt hợp tác thực dụng về quốc phòng giữa các bộ, các hầu cần quân đội và kỹ nghệ quốc phòng. Đoạn này sẽ duyệt xét một vài liên hệ hợp tác quốc phòng đáng lưu ý khởi sự với ba nước mà Việt Nam đã trao đổi phái đoàn cao cấp nhất.
Biểu đồ 2: Các chuyến công du cấp cao 1992 2006
đường màu hồng: khách đến VN – đường xanh đậm: đoàn VN thăm nước ngoài
3. Liên hệ quốc phòng với các nước trong khối ASEAN
Song phương. Việt Nam đã trao đổi bang giao quốc phòng cấp cao khá ráo riết với sáu nước trong số mười thành viên của khối ASEAN. Cùng với Lào và Căm Bốt, danh sách này bao gồm Thái Lan, Phi Luật Tân, Nam Dương và Tân Gia Ba (Singapore). Mối liên hệ quốc phòng với Brunei, Mã Lai và Miến Điện không có tác dụng quốc phòng đáng kể nào.
Cường độ trao đổi bang giao quốc phòng giữa Thái Lan và Việt Nam cần được lưu ý. Nội dung chính của mối liên hệ quốc phòng là những thăm viếng trao đổi ngoại giao, trao đổi giữa các trường tham mưu và các trường cao đẳng quốc phòng, và an ninh hàng hải (8). Tuy nhiên cũng có thêm những vấn đề thực dụng. Ví dụ, tháng Giêng năm 2007, Chỉ Huy Trưởng Tối Cao của Quan Đội Thái, Đại Tướng Boonsrang Niumpradit, đã thảo luận với Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân Việt Nam (VPA Vietnamese People Army), Trung Tướng Nguyễn Khắc Viện về việc hợp tác huấn luyện, tuần tra hàng hải, tìm và cứu ngư phủ, tranh đua thể thao và «những vấn đề khác cùng quan tâm». Tháng 12 năm 2007, Đại Tướng Anupong Pachinda, Chỉ Huy Trưởng Quân Đội Hoàng Gia Thái viếng thăm Hà Nội và bàn thảo với Trung Tướng Nguyễn Hữu Kham, Phó Tồng Tham Mưu. Vị khách Thái cũng làm việc với các «cơ cấu» của Quân Đội Nhân Dân.
Cường độ liên lạc quốc phòng cấp cao giữa Phi Luật Tân và Việt Nam đứng hạng thứ hai sau mối liện hệ với Thái và Việt Nam. Những thăm viếng quốc phòng cấp cao kể từ năm 1994 thường đặt trọng tâm đến những vấn đề an ninh tại Biển Nam Hải và những va chạm liên quan đến các ngư phủ Việt Nam và Thái trên lãnh hải mà cả hai bên đều nhận chủ quyền. (9) Đầu tháng 4 năm 1994, Tổng Thống Fidel Ramos, trong chuyến viếng thăm chính thức Việt Nam, đã mời tặng mười chỗ cho sinh viên sĩ quan Việt Nam trong Trường Cao Đẳng Quốc Phòng của Phi Luật Tân. Ông cũng đề nghị «trao đổi viếng thăm của các viên chức cao cấp quân sự, những khoá tu nghiệp cho các sĩ quan và huấn luyện viên quân sự và đầu tư trong việc tái thiết bị quân cụ, trong đó bao gồm phi cơ, để tái xuất khẩu». Không thấy nói đến kết quả thương thảo. Sau chuyến viếng thăm của tổng thống Ramos, các viên chức quân sự đã thăm viếng vịnh Subic để nghiên cứu khả năng chuyển sang khai thác thương mại và rút ra những kinh nghiệm để có thể thương mại hoá Vịnh Cam Ranh.
Một trong những chỉ dấu sớm sủa nhất cho thấy Việt Nam chú ý đến việc trợ giúp kỹ thuật trong việc sửa chữa và bảo trì quân cụ nằm ngoài khối Hiệp Ước Warsaw xuất hiện vào cuối năm 1991 trong lúc Trung Tướng Teddy Rusdy, Phụ Tá Chỉ Huy Trưởng của Quận Đội Nam Dương. Trong lúc bàn thảo tại Tổng Cục Kỹ Nghệ và Kỹ Thuật Quốc Phòng của Quân Đội Nhân Dân (VPA), Tướng Rusdy nhận được yêu cầu trợ giúp kỹ thuật trong việc sửa chữa và bảo trì quân cụ. Nam Dương chấp nhận nghiên cứu tỉ mỉ về vấn đề này ; nhưng không thấy có những tiến triển nào khác.
Năm 1993, các bộ trưởng quốc phòng Nam Dương và Việt Nam trao đổi thăm viếng. Tướng Đoàn Khuê, Bộ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam, đặc biệt chú ý xưởng đóng tàu và được đưa đến Surabaya để xem tận mắt. Đây là một chỉ dấu Việt Nam đang xem xét khả năng kết hợp đối tác trong việc đóng tàu tại Việt Nam. Năm 1995, một phái đoàn đại diện cho tập đoàn sản xuất phi cơ của chính phủ Nam Dương đến Việt Nam để thăm dò khả năng khởi sự công tác tại đây. Một lần nữa không có dấu hiệu gì xuất phát từ những liên hệ thăm dò này.
Khủng hoàng tài chánh năm 1997 tại Á Đông và ảnh hưởng của nó lên trên Nam Dương trói buộc khả năng hợp tác của Nam Dương với Việt Nam trong lãnh vực quốc phòng. Nam Dương đã phục hồi quan tâm đầu năm 2002 khi Trung Tướng Johny Lumintang, Tổng Thư Ký của Bộ Quốc Phòng và An Ninh họp bàn tại Hà Nội với Tổng Cục Hậu Cần và Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng của Quân Đội Nhân Dân. Những viếng thăm cao cấp gần đây có tính cách ngoại giao, chẳng hạn như chuyến viếng thăm tháng 8 năm 2007 của Chỉ Huy Trưởng Không Quân của Nam Dương .
Bang giao quốc phòng giữa Singapore vả Việt Nam khởi sự vào tháng 3 năm 1995 với việc viếng thăm Singapore của Tướng Đoàn Khuê, Bộ Trưởng Quốc Phòng. Kể từ đó hai nước đã trao đổi mười một phái đoàn cao cấp (cho đén tháng 8 năm 2005). Chiều hướng cho thấy họ chú tâm và có thể hợp tác công nghệ quốc phòng. Ví dụ, tháng 11 năm 1995, cấp chỉ huy của Tổng Cục Kỹ Thuật Quân Đội (VPA) dẫn một phái đoàn mười người trong một vòng thăm viếng công nghệ quốc phòng sở tại. Vào cuối năm sau, Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Quốc Phòng Bác Sĩ Tony Tan Keng Yam thăm viếng Việt Nam. Sau khi thảo luận với đối tác Việt nam, họ đồng ý Việt Nam sẽ gởi một phái đoàn sang Singapore để nghiên cứu kinh nghiệm tân trang và cải tiến hệ thống vũ khí (Thông Tấn Xã Việt Nam, 27 /11/1996). Tháng 3 năm 1999, Trung Tướng Lê Văn Dũng , Tổng Tham Mưu Trưởng, viếng thăm Singapore và được mời tham dự một buổi thuyết trình của Tổ Hợp Kỹ Thuật Công Nghệ. Năm 2002, báo cáo cho biết là Singapore và Việt Nam đã đạt thỏa thuận «trên nguyên tắc» hợp tác thao dợt chiến hải.
Được biết Hà Nội muốn Singapore Automotive Engineering ( bây giờ là chi nhánh ST kinetics của ST Engineering) trợ giúp tân trang thiết giáp M113 APC thời chiến tranh Việt Nam. Việc đại tu cơ bản 50 chiếc thiết giáp M113 hiện đang diễn ra tại căn cứ quận sự thành phố Hồ Chí Minh. Những bộ phận đã được thu mua qua những ngã thương mại và hệ thống vũ trang sẽ được lấy ra cải đặt từ những kho chiến tích thiết giáp được thiết kế cho đơn vị đồn trú miền Nam.
Tháng 9 năm 2007, Bộ Trưởng Quốc Phòng Singapore Teo Chee Hean, viếng thăm Hà Nội để đàm phán với đối tác Tướng Phùng Quang Thanh. Báo chí thuật lại hai bộ trưởng trao đổi kinh nghiệm trong việc xây dựng quân đội, phòng chống khủng bố, trợ giúp nhân đạo và thiên tai và gìn giữ ổn định. Họ đồng ý tiếp tục trao đổi phái đoàn. Tháng 11 năm 2007, Tướng Thanh thăm viếng ba ngày đáp lễ Singapore và được mời đến các căn cứ không quân và hải quân tại Lion City. Tháng 3 năm 2008 Đại Tướng Ng Chee Khern , chỉ huy trưởng Không Quân Singapore thăm viếng Hà Nội để bàn thảo việc hợp tác tiến hành trong những phi vụ tìm kiếm và cấp cứu, phát triển nguồn nhân lực và huấn luyện ngoại ngữ. Tướng Khern cũng đã thăm viếng và làm việc với các sĩ quan Phòng Không và Không Quân. Gần đây nhất, Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Quốc Phòng Singapore, Desmond Kuek thăm viếng Hà Nội vào tháng 4 năm 2008 và đã thỏa luận với Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân, Trung Tướng Nguyễn Khắc Nghiên. Họ đã được thỏa ước hợp tác quốc phòng trong việc huấn luyện, đội ngũ quân y và cứu trợ nhân đạo.
Những liên lạc quốc phòng giữa Mã Lai và Việt Nam khởi sự từ năm 1992 những chưa đạt đến mức cao cấp cho đến tháng 10 11 năm1994 khi Tướng Đoàn Khuê, bộ trưởng quốc phòng Việt Nam, chính thức viếng thăm Kuala Lumpur. Hành trình của tướng Khuê bao gồm việc viếng thăm viện tham mưu Quân Đội Mã lai, Kỹ Thuật Chất Nổ Syarikat Mã Lai, Airod Sdn Bhd, Trung Tâm Huấn Luyện Quân Sự Đặc Biệt Udang và Căn Cứ Hải Quân Lumut. Theo lời của Bột Trưởng Quốc Phòng Seri Najib Tun Razak: «Chúng tôi đồng ý khai triển một hình thức hợp tác và cộng tác quốc phòng, nhưng chúng tôi không đi sâu vào chi tiết. Tôi muốn họ nhìn thấy công nghệ của chúng tôi trước». Mặc dù không ký hiệp ước hữu nghị (MOU : Memorandum of Understanding), hai nước chấp thuận cải tiến hợp tác quốc phòng qua các cuộc thăm viếng, huấn luyện và hợp tác trong công nghệ quốc phòng. Mặc dù đã có những trao đổi cấp cao tiếp theo đó, nhưng cho đến nay không thấy ai nói đến việc hợp tác cụ thể về kỹ nghệ quốc phòng.
Đa phương. ASEAN tránh những sinh hoạt quốc phòng đa phương trong quá trình thành lập. Trước năm 2003 những sinh hoạt hợp tác quân sự của các nước trong khối ASEAN rất là khiêm tốn : thi đấu bóng đá và bóng chuyền quân đội, thi bắn thiện xạ (10), họp mặt hai năm một lần các cựu chiến binh (11). Đợi đến năm 2003 với sự phê chuẩn Hiệp Định Hòa Hợp Bali II, ASEAN mới đặt tiêu chí trở thành một cộng đồng an ninh vào khoảng 2015. Kế Hoạch Hành Động của Cộng Dồng An Ninh ASEAN bao gồm sáu phần : phát triển chính trị, hình thành và chia sẻ những tiêu chuẩn, ngăn ngừa xung đột, giải quyết xung đột, xây dựng hòa bình hậu xung đột, và thực hiện những cơ cấu.
Tháng Năm 2004, Nhóm Làm Việc Hợp Tác An Ninh của Hội Nghị Đặc Biệt Viên Chức Cao CấpASEAN yêu cầu Ban Thư Ký ASEAN sọan thảo một tiền dự án thành lập Hội Nghị Bộ Trưởng Quốc Phòng ASEAN (ADMM – ASEAN Defence Ministers Meeting). Tiền dự án ấn định ADMM sẽ là bộ phận bất khả phân của ASEAN và báo cáo trực tiếp lến Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN. Nó đặc biệt trác nhiệm trong bốn lãnh vực : (1) đề xướng hòa bình và ổn định qua đối thoại và hợp tác; (2) vạch đương hướng cho các viên chức cao cấp quốc phòng và quân sự; (3) đề xướng lòng tín nhiệm và tin cậy hỗ tương, tính minh bạch; và (4) góp phần xây dựng Cộng Đồng An Ninh của ASEAN.
Hội Nghị ADMM họp mặt mỗi năm và có tính chất « mở rộng, uyển chuyển, hướng ngoại » và trợ giúp các nỗ lực trong vùng để đẩy mạnh đối thoại an ninh và hợp tác trong đó bao gồm những biện pháp xây dựng tín nhiệm và hợp tác cụ thể trong khuôn khổ của ASEAN. Hội Nghị ADMM có trách nhiệm giám sát cuộc Họp không chính thức của các Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Quốc Phòng , Hội Nghị Đa Phương các Chỉ Huy Trưởng Quân Đội của ASEAN, Hội nghị các Chỉ Huy Trưởng Không Quân, Tương Tác Hải Quân của ASEAN, Họp không chính thức của Quân Báo ASEAN. Hội Nghị ADMM có trách nhiệm tiến hành đối thoại với các bằng hữu và đối tác.
Việc chấp thuận đề nghị thành lập Cộng Đồng An Ninh ASEAN bảo đảm cho những sinh hoạt đa phương được thực hiện. Thái Lan chủ sự tiếp đón cuộc họp đầu tiên của các Chi Huy Trưởng Không Quân ASEAN vào tháng 3 năm 2004 (12). Hội Nghị này chấp thuận kế hoạch thành lập những kênh thông tin trực tiếp để đẩy mạnh hợp tác. Hội Nghị Cấp Bộ Hàng Năm được tổ chức tại Jakarta vào tháng 6 năm 2004 tán thành kế hoạch tổ chức những khoá huấn luyện quân sự đặc biệt đặt trọng tâm vào việc phòng chống khủng bố. Nhưng những kế hoạch này cho đến nay xem ra khiêm nhường và chỉ bao gồm những sinh hoạt song phương.
Đáng chú ý hơn nữa, Hội Nghị Đa Phương Thứ 5 Chỉ Huy Trưởng Quân Đội ASEAN tại Tây Java vào tháng 9 năm 2004 chấp thuận lời đề nghị gia tăng hợp tác chống kủng bố qua phương cách trao đổi tình báo và thao tác hỗn hợp. Các chỉ huy trưởng đồng ý thành lập một nhóm làm việc để soạn thảo một chương trình chi tiết. Người ta đã ghi nhận lời tuyên bố của Đại diện của Việt Nam, Phó Tổng Tham Mưu Trưởng Tướng Nguyễn Năng Nguyên trong Quân Đội Nhân Dân sẽ đẩy mạnh hợp tác với các quân đội trong khối ASEAN « để chống khủng bố và góp phần xây dựng một ASEAN hòa bình, ổn định, thịnh vượng và bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia. »
Tháng 11 năm 2007, ASEAN đồng ý một tiến trình cho Dự Thảo Dự Án và chấp thuận để cho Hội Nghị ADMM mở rộng những mối liên hệ qua một cơ chế được mệnh danh là ADMM Plus. Một Bản tuyên bố chung được công bố lúc đó xác nhận một chương trình làm việc ba năm về đối thoại và hợp tác quốc phòng.
4.Thu Mua Quốc Phòng và Hợp Tác Công Nghệ Quốc Phòng
Vào khoảng thời gian 1990 và 2004, Việt Nam trao đổi phái đoàn cao cấp quốc phòng với 42 quốc gia. Báo giới cho biết những cuộc thảo luận về một vài khía cạnh của việc thu mua quốc phòng, hợp tác công nghệ quốc phòng , nghiên cứu và phát triển và huấn luyện kỹ thuật nằm trong lịch trình thảo luận với ít nhất 23 quốc gia. Đoạn này tìm hiểu ý định Việt Nam thu mua vũ khí, các dàn thiết bị và các trang bị quân sự khác ; thỏa ước bảo quản vũ khí và hợp tác công nghệ quốc phòng.
Việt Nam không dồi dào tài nguyên để cung hiến cho nền quốc phòng quốc gia. Quân Đội Nhân Dân Việt Nam theo truyên thống vẫn bổ sung ngân sách của mình qua những sinh hoạt kinh tế và thương mại ; từ khi áp dụng chính sách đổi mới, các xí nghiệp do quân đội quản lý đã thỏa hiệp hợp doanh với những đối tác ngoại quốc để kiếm tiền mặt. Tình hình tài chánh của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đặc biệt bấp bênh ngay sau thời gian Liên Bang Xô Viết sụp đổ. Những con số do Cơ Quan Kiểm Soát Vũ Khí và Giải Giới của Hoa Kỳ đưa ra cho thấy một sự giảm sút rõ nét trong việc nhập khẩu vũ khí từ 1,1 tỷ Mỹ Kim năm 1991 xuống 10 triệu Mỹ Kim năm 1992 và 10 triệu Mỹ Kim năm1993 tăng lên 90 triệu Mỹ Kim năm 1994. Năm 1992, Việt Nam xoay xở để bù đắp chi phi nhập khẩu bằng cách xuất khẩu 10 triệu Mỹ Kim trong việc bán vũ khí. Đây là lần xuất khẩu vũ khí đầu tiên ghi nhận được kể từ năm 1988 (13).
Biểu đồ 3 dưới đây cho thấy những chí phí ước định cho quốc phòng theo trị giá đồng, đồng tiên Việt Nam, tính theo phần trăm của tổng số lượng chi phí của chính phủ trong thời gian từ 1993 đến 2003 (14). Chi phí quốc phòng ở vào lưng chừng dưới 30% có phần giảm sút đôi chút vào những năm gần đây. Biều đồ 4 cho thấy ngân sách quốc phòng chính thức chuyển thành Mỹ Kim trong cùng một hời gian. Ngân sách quốc phòng đã gia tăng gấp đôi giữa những năm 1993 và 1997 cho đến 2 tỷ Mỹ Kim, rồi giảm xuống trong vòng hai năm vì khủng hoàng tài chánh Châu Á, rồi kể từ đó gia tăng một cách đều đặn .
Biểu đồ 3: Tỉ trọng ngân sách quốc phòng hằng năm
Biểu đồ 4: Ngân sách quốc phòng hằng năm (quy ra đô la)
Ngân sách quốc phòng của Việt Nam là một bí mật quốc gia. Việt Nam rất hiếm khi cung cấp những thông tin về việc thu mua vũ khí, những thỏa ước bảo quản và hợp tác cộng nghệ quốc phòng. Ví dụ, Việt Nam đã chuyền đạt báo cáo về nhập khẩu và xuất khẩu đề ghi vào Sổ Bạ Vũ Khí Quy Ước của Liên Hiệp Quốc hàng năm kể từ năm 1994. Trong thời gian này Việt Nam báo cáo nhập khẩu vũ khí chỉ có 4 năm, 1995, 1997, 2004, 2005. Việt Nam ghi « không » cho tất cả những năm khác. Những báo cáo này không đầy đủ. Ukraine báo cáo bán cho Việt Nam những năm 1995, 1996, 2002 và 2003, không ghi trong báo cáo của Việt Nam (xem Bảng 1)
Bảng 1
Báo Cáo Sổ Bạ Vũ Khí Quy Ước của Liên Hiệp Quốc [1]
Ghi Chú:
[1] Sổ Bạ Vũ Khí Quy Ước ghi nhận dữ liệu do các nước xuất khẩu và nhập khẩu cung cấp theo bày loại chính : chiến xã, thiết giáp, hệ thống pháo tầm cỡ lớn, chiến đấu cơ, trực thăng xung kích và tên lửa và dàn phóng tên lửa.
[2] Báo cáo của Liên Bang Nga cho tài khoá 2004.
[3] Báo Cáo của Cộng Hòa Czech cho tài khoá 2005.
[4] Báo cáo của Ukraine cho tài khoá 2005.
Cho đến tháng 11 năm 1998, Việt Nam bị ngăn cấm trong việc mua bán vũ khí và trang bị quân sự vì luật pháp an ninh Hoa Kỳ cấm cản việc buôn bán thiết bị quân sự cho Việt Nam trong đó có kỹ thuật của Hoa Kỳ. Cho đến khi lệnh cấm vận của Hoa Kỳ gỡ bỏ, Việt Nam buộc phải tìm những nước có những thiết bị tương hợp với thiết bị của Xô Viết. Tuy nhiên, điều này không ngăn cấm Việt Nam tham dò thị trường. giá cả và sự tương hợpthiết bị quyết định việc thu mua vũ khí và thiết bị quân sự của Việt Nam.
Liên Bang Nga. Vào giữa năm 1992, Nga thay đổi đột ngột chính sách của mình và rút ra khỏi vịnh Cam Ranh và bắt đầu một loạt thương thảo với Việt Nam về những kỳ hạn và điều kiện để lưu lại đây. Hai bên không thỏa hiệp được và tháng 5 năm 2002 Nga rút toàn bộ ra khỏi Cam Ranh. Tháng 6 năm1994, Nga và Việt Nam ký một hiệp định hữu nghị thay thế cho Hiệp Định Hữu Nghị và Hợp Tác năm 1978. Tháng 8 năm 1998, Việt Nam và Liên Bang Nga tuyên bố « tinh thần đối tác chiến lược mới », và hai năm sau, cả hai bên cuối cùng đạt thỏa thuận về việc giải quyết những món nợ đặc biệt.
Liên Bang Nga vẫn tiếp tục là nguồn cung cấp chính vũ khí và thiết bị quân sự, nhưng đã có chỉ dấu vấn đề giá cả đã khiến Việt Nam phải đa hoá nhập khấu. Năm 1994, Việt Nam và Nga đã ký ba khế ước mua bán quan trọng (15). Khế ước đầu tiên bao gồm việc bán 6 chiến đấu và oanh tạc cơ Sukhoi Su 27, một máy thiết bị bay mô hình hoá và một chương trình huấn luyện cho phi công và nhân viên bảo trì. Báo cáo do Nga và Việt Nam gời cho Sổ Bạ Vũ Khí Quy Ước Liên Hiệp Quốc xác nhận việc giao 5 chiếc Su 27 SK và một chiếc Su 27 UBK chiến đấu cơ cho Việt Nam năm 1995. Việt Nam tiếp tục mua thêm 6 chiếc Su 27s (16). Khế ước thứ hai liên quan đến việc bán hai loại chiến hạm nhanh1241RA (Fast Attack Craft – FAC) ; khế ước thứ ba liên quan đến việc bán 4 hệ thống ra đa phòng không.
Năm 1996, Nga và Việt Nam thiết lập một công ty hợp doanh để đồng sản xuất những chiến hạm KBO 200 và loại BPS 500 tại xưởng hải quân Ba Son tại thành phố Hồ Chí Minh. Loại đầu tương đương với tàu hộ tống nhỏ và loại thứ hai là một loại chiến hạm nhanh nhỏ hơn có trang bị tên lửa hải đối hải (SSM – Surface to Surface Missile). Việt Nam cũng đề nghị đồng sản xuất ra đa phòng không và tên lửa hải đối hải. Sau đó, Việt Nam mua thêm 4 chiến hạm nhanh 1241RA và tên lửa SSM (17) . Giữa hai năm1996 và 1998, Nga tân trang 32 chiến đấu cơ bình địa một chỗ ngồi Su 22M4 và hai chỗ ngồi Su 22UM3.
Năm 1997, nguồn tin từ công nghệ quốc phòng Nga cho biết đã bán mốt số chiến đấu xa BP 3A và chiến xa T 8 OU cho Việt Nam. Văn Phòng Thiết Kế Hàng Hải Trung Ương Almaz của Nga giao hai loại tàu tuần tra 14310 Svetlyak vào tháng 12 năm 2002 để dùng cho việc Tuần Tra Bờ Biển.
Mối liên hệ quốc phòng giữa hai nước được củng cố thêm qua chuyến viếng thăm tháng Hai, tháng ba năm 2001 tại Việt Nam của Tổng Thống Nga Vladimir Putin. Thời gian ông ở lại đây, cà hai nước đều đồng ý « thắt chặt hợp tác về thiết bị quân sự để đáp ứng nhu cầu của Việt Nam ». Năm 2002, Liên Bang Nga liệt kê đã bán 8 tên lửa và dàn phóng tên lửa cho Việt Nam trong bản báo cáo hàng năm gởi cho Sổ Bạ Vũ Khí Quy Uớc Liên Hiệp Quốc.(18). Năm 2003, Nga và Việt Nam ký kết thỏa ước mua bán ba vũ khí quan trọng : 4 chiến đấu cơ Su 30 MKK (có thể thêm 8 chiếc nữa) ; hai tàu phóng tên lửa Molnya 1241.8 (hạng Ho A của Việt Nam), cộng thêm với tám chiếc lắp ráp tại Việt Nam (19) và hai khẩu đội (gồm 12 dàn phóng mỗi cái) hệ thống tên lửa hải không S 300PMU1 trong một khế ước trị giá 200 triệu Mỹ Kim. Giao dịch về 12 hệ thống này trị giá vào khoảng 300 triệu nếu tất cả các thiết bị được cung cấp. Tổng số chi phí mua vũ khí năm 2003 đước ước chừng vào khoảng 480 triệu Mỹ Kim.
Năm phi cơ Su 30 được giao vào cuối năm 2004. Tuy nhiên, việc mua 8 tám chiếc còn lại xem ra quá đắt đối với Việt Nam. Nhưng chiếc SU 27 và SU 30 cần được tân trang để có thể hoạt động với những tên lửa không đối không, không đối hải và đối hạm, đặc biệt tên lửa R 77 vượt xa tầm nhìn AAM. Khẩu đội S 300PMU1 được giao vào tháng 8 năm 2005.
Tháng 3 năm 2005, được biết Việt Nam có thể mua thêm 8 đến 10 chiến đấu cơ, với loại ưa chuộng SU 27 hoặc SU 30MK. Thiếu hụt ngân sách xem ra là một ngăn trở lớn và là yếu tố quyết định năm đó Việt Nam mua 40 chiến đấu cơ Sukhoi SU 22 đã dùng. Chương trình Dự Án 2100 lắp ráp tàu hộ tống nhỏ của Nga hình như đã bị bãi bỏ. Người ta luôn luôn nghi ngờ khả năng Việt Nam có những kỹ năng bản xứ để lắp ráp những chiếc tàu tương đối phức tạp như thế. Cộng thêm vào những món « cỡ bự » này, Nga cung cấp cho Việt Nam những phụ tùng và trợ giúp bảo trì và tân trang thiết bị quân sự. Nhân công quân sự Việt Nam tiếp tục học tại các trường Cao đẳng quân sự Nga.
Tháng 12 năm 2007, Nga và Việt triệu tập một buổi họp thường niên của Ủy Ban Liên Chính Hợp Tác Kỹ Thuật Quân Sự. Giám đốc của Cục Liên Bang Hợp tác Quân Sự và Kỹ Thuật đứng đầu phái đoàn Nga. Hình như Việt Nam đang muốn thương lượng với Nga để mua thêm 6 tàu hộ tống «Tarantul 3 ». Nhưng loại 3s được trang bị tên lửa SS N 22 Sunburn giống như những chiến hạm « Sovremmeny » của Trung Hoa. Việt Nam mong muốn có được tàu ngầm tầm cỡ lớn của Nga, khởi sự từ hai hoặc ba dàn dựng. Chưa thấy hợp đồng nào được ký hay sắp được ký cả.
Ukraine. Có lẽ Ukraine đứng hàng thứ hai sau Liên Bang Nga là quốc gia cung cấpo thiết bị quân sự và huấn luyện kỹ thuật tại Việt Nam. Hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và Ukraine khởi sự vào tháng 3 năm 1994 khi Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân viếng thăm Kiev. Tổng Tham Muu Phó Quân Đội Nhân Dân tháp tùng vị thử tướng trong một chuyến viếng thăm tháng 6 năm đó. Sau đó, được biết Ukraine bán cho Việt Nam 14 tên lửa R27R1 (470 1) và dàn phóng tên lửa năm 1995 và 6 phi cơ huấn luyện MIG 21 năm 1996. Tổng tham mưu trưởng của quân đội Ukraine viếng thăm đáp lễ tháng 9 năm 1997 và bàn thảo hợp tác về việc mua bán thiết bị, kỹ thuật và huần luyện nhân sự. Kết qua của việc viếng thăm của bộ trưởng quốc phòng Việt Nam tháng 5 năm 2002, Việt Nam và Ukraine đạt thỏa thuận về một chương trình hợp tác kỹ thuật quan sự dài hạn cho đến năm 2005. Theo quy định của hiệp định này, Ukraine sẽ trợ giúp Việt Nam tân trang hệ thống phòng không của Việt Nam (ra đa, hệ thống liên lạc và tên lửa địa đối không), chiến đấu không phận, lực lượng thủy quân, xe bọc sắt và pháo binh. Đặc biệt, các chuyên viên Ukraine đã thiết lập kế hoạch để canh tân lực lượng thủy quân và phòng không Việt Nam. Những kế hoạch này đòi hỏi sự can thiệp sâu sát của Ukraine trong một số những lãnh vực như cải tiến xưởng đóng tàu Ba Son tại thành phố Hồ Chí Minh ; khai triển những thiết bị thử nghiệm hàng hải ; đồng sản xuất vũ khí ; trao đổi sĩ quan hạng trung ; sửa chữa, tân trang và cung cấp tất cả mọi loại thiết bị và vũ khí. Ukraine sẽ huấn luyện từ 30 đến 40 sĩ quan cao cấp Quân Đội Nhân Dân cho đến cấp tướng tại trường cao đẳng quân sự. Theo báo cáo Ukraine gởi cho Liên Hiệp Quốc, họ bán 10 phi cơ huấn luyện chiến đấu cho Việt Nam vào năm 2002 và 2003. Năm 2005, Việt Nam mua 3 chiếc phi cơ « Fitter » không rõ kiểu nào của Ukraine.
Ấn Độ. Năm 1994, Ấn Độ và Việt Nam ký một thỏa ước về hợp tác quốc phòng bao gồm việc huấn luyện các sĩ quan Việt Nam tại Viện Quốc phòng Ấn Độ, bảo quản thiết bị quân sự của Việt nam và tiếp tục thỏa luận đều đặn giữa hai bộ quốc phòng. Một viên chức Ấn Độ mô tả hiệp định nằm trong khuôn khổ một thỏa ước cấp thấp, trong khi tùy viên quân sự Việt Nam lại tuyên bố « Chúng tôi rất cần sự trợ giúp của Ấn Độ trong việc huấn luyện nhân sự quốc phòng, ưu tiên hàng đầu của chúng tôi. Sự trợ giúp của Ấn Độ về thiết bị quân sự sẽ là một thỏa ước hợp tác lâu dài và chúng tôi vẫn đang còn thảo luận về chi tiết ». Không bao lâu sau đó, Việt Nam ký thỏa ước với Công Ty Hindustan Aeronautics Ltd (HAL) để đại tu và bảo quản từ 8 cho đén 10 động cơ MIG 21 và trợ giúp kỹ thuật liên tục.
Việt Nam xem ra chú tâm nhiều đến việc phát triển hợp tác công nghiệp quốc phòng. Ví dụ, tháng 5 năm 1995, một phái đoàn quân sự do Tổng Tham Mưu trưởng Quân Đội Nhân Dân lãnh đạo đã thăm viếng Ấn Độ. Phái đoàn đã thăm quan Hyderabad, Dindigul, Madras, Bangalore, Goa, Nasik và Pune để nghiên cứu huấn luyện quân sự và công nghệ quốc phòng, trong đó bao gồm những sinh hoạt của các công ty như HAL, Ordnance Factories Board (Ủy Ban Công Xưởng Quân Nhu), Bharat Earth Movers Limited (Công Ty hữu hạn Đào Xới Bharat)và Goa Shippers Limited (Công ty hữu hạn đóng tàu Goa).
Sau này, Ấn Độ nhận lời hỗ trợ Việt Nam trong việc xây dựng công nghiệp quốc phòng để sản xuất những vũ khí cỡ nhỏ và trung bình và những sản phẩm quân nhu (The Times of India, ngày 29/3/2000). Việc mua bán vũ khí trong tương lai có thể bao gồm trực thăng đa năng tiên tiến, chiến hạm và tên lửa chống chiến hạm và phòng không.
Năm 2000, Ấn Độ và Việt Nam ký một hiệp định quốc phòng rộng tầm (20). Tài liệu này đặt nền tảng cho sự hợp tác quốc phòng mỗi lúc một gia tăng và nâng cấp liên hệ lên đến những buổi họp định kỳ giữa các bộ trưởng quốc phòng và trao đổi viễn kiến chiến lược và chia sẻ tình báo. Chiếu theo hiệp định năm 2000, Ấn Độ sẽ trợ giúp Việt Nam sửa chữa và đại tu đội ngũ 120 phi cơ MIG 21 và huấn luyện phi công chiến đấu và chuyên viên kỹ thuật Việt Nam . Hải Quân Ấn Độ sẽ giúp sửa chữa, tân trang và xây dựng giang thuyền tuần tra gia tốc cho hải quân Việt Nam và huấn luyện nhân sự kỹ thuật (The Hindu, 28/3/2000). Hiệp nghị còn bao gổm những cuộc thao dợt hải quân song phương và phối hợp tuần phòng của Cành sát Hải quan Việt Nam và Đội Tuần phòng Bờ Biển Ấn Độ.
Tháng10 năm 2002, Việt Nam yêu cầu Ấn Độ huấn luyện điều khiển tàu ngầm nhưng không rõ việc này có liên quan đến việc thu mua năm 1997 hai dàn nhỏ từ Bác Triều Tiên hoặc là một chương trình mới. Dù sao đi nữa, lời yêu cầu này biểu hiện giai đoạn thứ nhất trong việc thực thi ý định dài lâu phát triển khả năng huy động chiến trận dưới mặt biển.
Năm kế tiếp (2003), Viêt Nam huần luyện chiến tranh du kích cho quân đội Ân Độ. Tháng 5 năm 2003, Ấn Độ và Việt Nam ký một bản «Tuyên bố Chung về Khung Hợp Tác Hiểu Biết» trong đó bao gồm : những hội nghị cấp cao thường kỳ, hợp tác chặt chẽ tại Liên Hiệp Quốc và những diễn đàn quốc tế khác, trợ giúp và tôn trọng và bảo vệ quyền lợi hỗ tương, từng bưosc phát triển hợp tác trong lãnh vực an ninh và quốc phòng.
Năm 2007, với những buớc tiến quan trọng, Ấn Độ và Việt Nam tuyên bố thiết lập «hợp tác chiến lược» trong thời gian Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm viếng. Tháng 11, Ấn Độ và Việt Nam tổ chức Đối Thoại An Ninh lần thứ ba tại Tân Đề Li (New Delhi) và quyết định xúc tiến hợp tác trong việc huấn luyện các hạ sĩ quan, tổ chức đối thoại an ninh hàng năm, chia sẻ giám định về những vấn đề hai nước cùng quan tâm chung như an ninh hàng hải, quản lý biến giới và phòng chống nổi loạn, huấn luyện trong những công tác gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc, và mời những quan sát viên Việt Nam tham gia những sinh hoạt quân sự của Ấn Độ. Tháng 12, Bộ Trưởng Quốc Phòng Ấn Độ A.K. Anthony thăm viếng Hà Nội với sự tháp tùng của Phó Tham Muu Trưởng và các sĩ quan cao cấp không quân và hải quân. Ấn Độ thỏa thuận cung cấp Viêt Nam 5.000 phụ tùng thiết yếu cho các chiến hạm loại Petya chống tàu ngầm để cho chúng hoặt động hữu hiệu. Thêm vào đó, Ấn Độ chấp thuận gởi đến Việt Nam một đội bốn người vào nửa năm đầu 2008 để huấn luyện công tác gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc. Cuối cùng, hai bên đồng ý thiết lập một Nhóm Làm Việc Hỗn Hợp để tạo điều kiện dễ dàng cho việc ký kết Bị Vong Lục Hữu Nghị về hợp tác quốc phòng (bao gồm hợp tác về quốc phòng, bảo vệ lãnh hải , bảo vệ không phận và huấn luyện nhân viên). Phái đoàn Ấn Độ cũng đã viếng thăm công nghệ quốc phòng tại thành phố Hồ Chí Minh.
Bộ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam nhờ Ấn Độ trợ giúp trong việc huấn luyện nhân sự quân sự (21), gia tăng những trao đổi phái đoàn, gia tăng hợp tác huấn luyện, hợp tác giữa hai công nghệ quốc phòng, gia tăng nhịp độ thăm viếng hải quân thân hữu, áp dụng kỹ thuật thông tin và tin học, trợ giúp kỹ thuật cho hải quân Việt Nam
Gần đây nhất, Trung Tướng Trương Quang Khánh, Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Công Nghệ Quốc Phòng, Bộ Trưởng Quốc Phòng, tham dự một cuộc triển lãm quốc phòng quốc tế, DEFEXPO 2008 (Defense Expo) tại New Delhi tháng 2 năm 2008. Cùng vào tháng đó Đô Đốc Sureesh Meht, Tham Mưu Trưởng Quân Đội, thăm viếng Hà Nội và tại đây ông gặp Thứ Trưởng Quốc Phòng Trung Tướng Nguyễn Khắc Viện. Đô Đốc Mehta thanh tra Công Ty Đóng Tàu Hồng Hà và cũng thăm viếng thành phố Hồ Chí Minh trước khi lên đường. Cuối cùng, vào tháng 4, Chỉ Huy Phó Bộ Tư Lệnh Hải Quân Đông Ấn, Phó Đô Đốc R.P.Suthan cầm đầu hái chiến hạm đến cảng Hà Nội. Ông thỏa luận với Phó Tổng Tham Mưu Quân Đội Nhân Dân, Trần Quang Khuê.
Châu Âu. Cộng thêm với những thỏa ước mua vũ khí với Nga và Ukraine, Việt Nam cũng đã thăm dò khả năng mua thiết bị quốc phòng và hỗ trợ quân sự với các nước Châu Âu, đặc biệt với các cựu thanh viên của Hiệp Ước Warsaw .
Đầu những thập niên 1990, Việt Nam mua 9 phi cơ huấn luyện Albatross Aero L 39 của cựu Cộng Hòa Czech và Slovak, và sau này nhờ trợ giúp của họ trong việc bảo trì và sửa chữa. Năm 1995, Việt Nam ký thỏa ước với Omnipol để mua kỹ thuật và thiết bị để sản xuất súng phóng tên lửa nhiều ống tại Việt Nam. Tháng 5 2003, bộ trưởng ngoại giao Czech thăm viếng Hà Nội và đề nghị trợ giúp Việt Nam tân trang xe tăng T 72. Ông bộ trưởng cũng đề nghị bán những quân phục và thiết bị chống vũ khí hoá học. Được biết ít nhất 5 chiếc phi cơ SU 22UM3 cộng hòa Czech hai chổ ngồi đã được giao cho VIệt Nam năm 2005 và có thể hơn 25 chiếc phụ trội SU 22MU4 đã gởi đến Việt Nam (tài liệu của Ba Lan, xem ở dưới).
Tháng 7 năm 1994, Thủ tướng Slovakia với bộ trưởng quốc phòng và một số đại diện của công nghệ vũ khí tháp tùng đã đến thăm viếng Việt Nam. Trong thời gian ở Hà Nội họ ghi nhận ý định Việt Nam mua xe tăng T 72 và pháo bị. Tháng kế tiếp chủ tịch nhà nước Việt Nam thăm viếng Slovakia và đề nghị hợp tác giữa hai công nghệ quốc phòng, bao gồm việc sản xuất những chiến hạm quốc phòng. Tháng 5 năm 2002, bộ trưởng quốc phòng Việt Nam Phạm Văn Trà viếng thăm Cộng Hòa Slovak. Tướng Trà thăm dò đối tác để hợp tác công nghiệp quốc phòng và tân trang thiết bị quân sự tại những công xưởng của Slovak. Tướng Trà đặc biệt chú ý đến hệ thống phòng không dị động Brams, và thiết giáp nhẹ Aligator. Tướng Trà trở về Hà Nội với kế hoạch đề xuất của công nghệ quốc phòng Slovak.
Bulgari và Việt Nam gia hạn hiệp định hợp tác quốc phòng năm 1997 trong thời gian viếng thăm của bộ trưởng quốc phòng Việt Nam. Hiệp Định này bao gồm sự hợp tác trong các lãnh vực cung cấp phụ tùng phi cơ MIG 21, sủa chữa thiết bị quân sự, khoa học quân sự và quân y và trao đổi nhân sự. Tháng 10 năm 2007, Bộ trưởng quốc phòng Bulgari thăm viếng Việt Nam để bàn thảo việc hợp tác quân sự trong việc huấn luyện ngôn ngữ, văn hoá, thể thao và đặc biết đáng chú ý hơn là kỹ thuật quân sự.
Tháng 12 năm 1998, Thứ Trưởng Quốc Phòng Ba Lan thăm viếng Việt Nam để thảo luận về hợp tác đóng tàu và bán vũ khí ( gồm có MIG 20 và vũ khí lục quân). Ba Lan trợ cấp 70 triệu Mỹ Kim cho Việt Nam để giúp thành lập công xương đóng tàu. Tháng 5 năm 2000, Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Việt Nam thăm viếng Ba Lan và ngỏ ý muốn mua trực thăng Anaconda và phi cơ Bryza. Cả hai bên thảo luận việc hợp tác tương lai trong những lãnh vực như tân trang chiến xa ( hệ thống tác xạ mới), đồng sản xuất đạn dược và huấn luyện sĩ quan.
Tháng 10 năm 2003, Việt Nam ký thỏa ước mua đến 10 chiếc phi cơ chuyên chở STOL (cất và hạ cánh tầm ngắn) Polskie Zaklady Lotnicze PZL M28 để dùng vào việc giám sát hải phận và việc tuần tra biên giới của Ba Lan trị giá ước lượng 40 triệu Mỹ Kim. Hai phi cơ đã được giao vào tháng 12 năm 2004 và hai chiếc sau được giao vào giữa năm 2005. Phi cơ này có thể do không quân điều khiển. Đầu tháng 3 năm 2005, được biết Ba Lan có thể cung cấp xe tăng T 72 MBT cùng với huấn luyện và bảo trì thiết bị cơ bản, cũng nhu đạn dược. Việc chuyên chở 150 chiếc xe tăng cũ, có lẽ lấy từ kho dự trữ tồn đọng, khởi sự vào quý thứ ba năm 2005. Cũng năm 2005, Việt Nam mua 40 phi cơ SU 22M của Ba Lan.
Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân, Tướng Nguyễn Khắc Viện, viếng thăm Belarus ngày 21 23 tháng 6 năm 2007 và thỏa luận với Bộ Trưởng Quôc Phòng Tướng Leonid Maltsev và Đệ Nhất Thứ trưởng quốc phòng Trung tướng Sergei Gurulev. Một năm sau (tháng Giêng năm 2008) Đệ Nhất Phó Chủ Tịch Ủy Ban Công Nghệ Quốc Phòng Belarus viếng thăm Hà Nội để nói chuyện với Bộ Trưởng Quốc Phòng Tướng Phùng Quang Thanh.
Ngoài các cựu thành viên Hiệp Ước Warsaw, Việt Nam thăm dò mua vũ khí và hợp tác quốc phòng với một số quốc gai Châu Âu. Năm 1997, được biết Việt Nam đã nhận thiết giáp Pháptrong vòng «hai năm qua». Vào giữa năm 1997, Việt Nam thảo luận với Serbia Montenegro để mua chiến xa T 55 tân trang. Năm kết tiếp Phần Lan đề nghị bán cho Việt Nam những phụ tùng rời phi đội MIG 21 bỏ xó. Tháng 2 năm 2005, báo cáo cho biết Lực Lượng Quốc Phòng Phần Lan dự trù bán môt lô có đến 70 chiếc xe tăng T 54 và T 55 thời Liên Bang Xô Viết (MBT Main Battle Tank).
Tháng 6 năm 1997, Anh Quốc đã dùng chiến hạm HMS Beaver ghé cảng Việt Nam để bán những thiết bị quốc phòng. Tháng 3 năm 1999, Hoàng Thân Andrew dẫn một phái đoàn 11 xí nghiệp đến thành phố Hồ Chí Minh để trình bán những thiết bị quốc phòng. Cuộc viếng thăm của hoàng thân Andrew trung hợp với việc ghé cảng của chiến hạm HMS Boxer. Cuối cùng, năm 1999 Việt Nam tỏ ý muốn mua vệ tinh liên lạc quân sự đầu tiên. Các viên chức Việt Nam đã tiếp xúc với Alcatel, một công ty Pháp, cũng như Cty Matra Marconi Space, một công ty hỗn hợp Anh Pháp (Hà Nội cũng dã tiếp xúc với các xí nghiệpHoa Kỳ Lockheed Martin và Loral Space).
Năm 2005, nước Áo chấp thuận tài trợ việc phát triển trường dạy nghề kết hợp với Bộ Quốc Phòng của Việt Nam. Ngày 15 tháng Giêng năm 2008, nước Áo chấp thuận cung cấp thêm 15 triệu (Mỹ Kim ?) cho chương trình này để sang giai đoạn thứ ba. Tháng 12 năm 2007, Trung Tướng Gianni Botondi, Tổng Thư Ký Quốc Phòng và Trang Bị Vũ Khí của Ý Đại Lợi chính thức viếng thăm Việt Nam để bàn thảo về cơ cấu kỹ nghệ quốc phòng. Ý và Việt Nam đồng ý thiết lập một nhóm làm việc để xúc tiến hợp tác song phương. Tháng 5 năm 2008, Thứ Trưởng Quốc Phòng, Trung Tướng Nguyễn Huy Hiệu, đến Thụy Sĩ để bàn thảo với Cục Trưởng Quốc Phòng, Bảo vệ Dân sự và Thể thao Liên Bang để đẩy mạnh hợp tác quốc phòng. Tướng Hiếu tham quan một số kỹ nghệ Thụy Sĩ.
Các nguồn cung cấp khác. Chỉ còn ba nước khác bán vũ khí và hỗ trợ nỗ lực hiện đại hoá quân đội : Israel (Do Thái), Bắc Triều Tiên và Nam Triều Tiên. Năm 1993 những xí nghiệp quốc phòng Israel đề nghị tấn trang toàn đội phi cơ, thiết giáp và khẩu pháo do Liên Bang Xô Viết sản xuất. Tháng Giêng năm 1994, các viên chức trong Công Nghệ Quốc Phòng của Bộ Quốc Phòng và Tổng Cục Kỹ Thuật thăm viếng Israel để uớc định sợ hỗ trợ của Israel trong việc tân trang hệ thống liên lạc của Quân Đội Nhân Dân. Năm sau, một công ty Israel ký kết khế ước tân trang hệ thống liên lạc quân sự của Việt Nam. Năm 1999, các công ty Israel đã thất bại trong khế ước bỏ thầu tân trang phi đội MIG của Việt Nam. Trong thời gian viếng thăm của Phó Thủ Tướng Nguyền Công Tấn tháng 11 năm 1999, người ta được biết các kỹ nghệ quốc phòng của Israel đã ký khế ước với Việt Nam để xuất khẩu trang bị quốc phòng. Không có chi tiết nào khác được tiết lộ.
Năm 1994, Việt Nam và nước Công Hòa Nhân Dân Triều Tiền trao đổi thăm viếng cấp bộ trưởng quốc phòng. Hai bên đồng ý một cuộc trao đổi trong đó Việt Nam cung cấp gạo để đổi lấy phụ tùng vũ khí và đạn dược. Tháng 12 năm 1996, Thứ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam, Tướng Nguyễn Thới Bung, thăm viếng Bắc Triều Tien và ký kết bán mớ quốc phòng trị giá 100 triệu Mỹ Kim gồm có tiên lửa phòng không di dộng Igla (SA 16 Gimlet) và tên lửa liên lục địa tầm ngắn. Năm sau Việt Nam nhận hai chiếc tàu ngầm Triều Tiên Yugo loại nhỏ và tân trang chúng tại Vịnh Cam Ranh (Robert Karniol, Jane’s Defense Weekly, 9/12/1998). Tháng 4 năm 1999, Việt Nam thu thập được một số tên lửa SCUD C địa đối địa với tầm bắn 550 cây số (với lượng chất nổ 770 ký). Năm 2003, báo cáo cho biết Bắc Triều Tiên đã bán một số kỹ thuật quân sự không rõ cho Việt Nam (Far Eastern Economic Review, 13/2/2003).
Năm 1994, hai năm sau khi Việt nam và Nam Triều Tiên thiết lập ngoại giao với nhau, Việt Nam thăm dò Tổ Hợp Hyundai để mua hải thuyền thần tốc 80 tấn để tuần tra duyên hải. Các viên chức của Hyundai không phủ nhận tin này nhưng tuyên bố họ không xin giấy phép xuất khẩu. Tháng 4 năm 1995, hai bộ trưởng quốc phòng đồng ý, trong cùng nhiều vấn đề khác, trao đổi trạng bị kỹ nghệ quốc phòng. Tháng 10 cùng năm đó, Nam Triều Tiên thiết lập văn phòng tuy viên quân sự đầu tiên tại Hà Nội.
Bộ trưởng quốc phòng hai nước trao đổi thăm viếng cuối năm 2000 và đầu năm 2001. Trong cuộc thăm viếng của bộ trưởng quốc phòng Nam Triều Tiên, lịch trình bao gồm việc trao đổi kỹ thuật quốc phòng và các công nghiệp liên thuộc. Trong cuộc viếng thăm đáp lễ của bộ trưởng quốc phòng Việt Nam hai bên thỏa thuận bị vong lục hữu nghị ; bị vong lục thứ nhất đề cập đến hợp tác trong công nghệ quốc phòng và hậu cần, trong khi bị vong lục thứ hai bao gồm trao đổi huấn luyện quân sự. Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam đã thăm viếng nhiều lần các xí nghiệp Nam Triều Tiên và các nhà chế tạo vũ khí. Vào lúc đó Công Nghiệp Nặng và Cơ Cấu Máy Móc Daewoo đang có ý định phối hợp ngành nghề để tân trang những kho thiết giáp do Hoa Kỳ sán xuất. Tháng 11 năm 2001, Nam Triều Tiên tổ chức một cuộc triển lãm sản phẩm quân sự và điện tử trong lúc ba chiến hạm của họ ghé cảng. Tháng 9 năm 2007, hai chiến hạm Nam Triều Tiên (một tàu khu trục và hai tàu hậu cần) ghé cảng thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 1 năm 2008, Chỉ Huy Trưởng Hải QuânViệt Nam, Phó Đô Đốc Nguyễn Văn Hiền, mở một thăm viếng hiếm có năm ngày tại Seoul (Hán Thánh) để bàn thảo việc mở rộng liên hệ giữa hai lực lượng hải quân. Phó Đô Đốc Hiền gặp gỡ và bàn thảo với Chỉ Huy Trưởng Hải Quân Tác Chiến của Nam Triều Tiên, Đô Đốc Song Young Moo. Cả hai vị đô đốc bàn thảo về việc đẩy mạnh hợp tác trang lãnh vực công nghệ quốc phòng.
(còn tiếp)
Carlyle Thayer
Bản dịch của Nguyễn Gia Thưởng
(1) Frances M. and Stephen H. Fuller Distinguished Visiting Professor , Center of Southeast Asian Studies(Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Nam Á), Ohio University, Paper to EuroViet 6, Asien Afrika Institut, Universitat Hamburg, Hamburg, Germany, June 5 7, 2008.
(2) Hiệp Ước Warsaw được thành lập năm 1955 và gồm có bảy nước thành viên : Bulgaria, Tiệp Khắc, Đông Đức, Hungary, Ba Lan, Romania và LB Xô Viết. Nó chính thức giải tán năm 1991.
(3) Nhiều tùy viên quân sự được Việt Nam thừa nhận không cư trú tại Việt Nam. Ví dụ, đại diện quốc phòng Anh quốc có văn phòng thường trực tại Kuala Lumpur
(4)Tài liệu này không đề cập đến những trao đổi ủy ban có trách nhiệm về vấn đề quốc phòng và an ninh. Ví dụ, Việt Nam đã tiếp đón những phái đoàn của Ủy Ban Quốc Phòng Pháp (tháng 1 năm1992), Hội đồng Quân Sự Thái Lan của Hạ Viện, Quốc Hội Nga (tháng 2 năm 1997), Ủy Ban Quốc phòng của Quốc Hội Lào, và Ủy Ban Quốc Phòng của Quốc Hội Bỉ (tháng 11 năm 2004)
(5). Dựa trên những thông tin thu thập được cho đến nay, kể cả ngày 30 tháng12 năm 2006. Dữ liệu thu thập từ nhật báo Quân Đội Nhân Dân và các đài phát thanh và báo chí, kể cả những thông tin của Cơ Quan Thông Tin Ngoại Quốc Hoa Kỳ và đài BBC; cũng bao gồm những tin tức trên các mạng của Viêt Nam Thông Tấn Xã, Đài Tiếng Nói Việt Nam (Radio Voice of Vietnam) và Tin Việt Nam (Viet Nam News). Tài liệu này cũng dùng những thông tin của giới truyền thông trong vùng và của quốc tế cũng nhũ những nguồn tin khác.
(6) Dữ liệu này chắn chắn có thiếu sót vì tính cách kín đáo của những cuộc thăm viếng cấp thấp này.
(7)Tháng 10 năm 2006, Việt Nam và Nhật Bản đa ra một bản “Thông cáo chung Hợp tác Chiến Lược để duy trì Hòa Bình và Thịnh Vượng tại Châu Á”, nhân dịp chuyến viếng thăm của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Tokyo. Hội thảo lần thứ tư chính trị quân sự Nhật Bản và Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội ngày 13 tháng 12 năm 2007. Phó Tổng Giám Đốc, Quốc Vụ Khanh Ngoại Giao Đông Nam Á và Tây Nam Á, thuộc Bộ Ngoại Giao và Giám Đốc Chính sách Quốc Tế của Bộ Quốc Phòng.
(8) Tháng 1 năm 1992, Chỉ Huy Trưởng Quân Đội Hoàng Gia Thái thăm viếng Việt Nam và đề nghị trao đổi những bộ phận xe tăng T 69 của Trung Hoa trong kho của Thái Lan với những bộ phận phi cơ F 5 mà Việt Nam chiếm giữ năm 1975 và vẫn còn dự trữ. Hình như đề nghị này không có kết quả.
(9) Tháng Giêng năm 1998, quân đội Việt Nam bắn ngư phủ Phi Luật Tân ở kế cận vùng Tenant Reef
(10) Việt Nam tổ chức Thi Bắn Quân Đội ASEAN lần thứ 16 vào tháng 11 năm 2006.
(11) Hội nghị lần thứ 10 của Hiệp Hội các Cựu Chiến Binh ASEAN được tổ chức tại Brunei tháng 10 năm 200. Cuộc Thi Bắn Quân Đội ASEAN lần thứ 14 do Nam Dương tổ chức vào tháng 9 năm 2004.
(12) Trung Tướng Nguyễn Văn Thân, chi huy trưởng của Không Quân Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, đại diện cho Việt Nam.
(13) Mặc dù không có chi tiết nào được tiết lộ, được biết Việt Nam trước đây đã bán súng ống, kích pháo và dàn phóng tên lửa cho phiến quân ở El Salvador và những xe thiết giáp M 113 cho Iran. Tin tức về những vụ mua bán vũ khí của Việt Nam đãc biệt hiếm hoi. Năm 2001, người ta được biết Miến Điện nhận hai kiện pháo đạn sản xuất tại Việt Nam. Nhưng, theo một số báo cáo khác, việc mua bán này đã được các con buôn vũ khí dàn xếp và chính quyền Hà Nội không hề biết địa điểm nhận cuối cùng là ai.(Jane’s Defence Weekly, March 21, 2001; and Robert Karinol, Jane’s Defence Weekly, July 25, 2001).
(14) Nguồn: Tổ chức Tình Báo Quốc Phòng Úc Châu
(15) Việc mua bán này trị giá $180 triệu Mĩ Kim, trong đó 80% bằng tiền mặt và phần còn lại bằng sản phẩm nông nghiệp.
(16) Sổ Bạ Vũ Khí Quy Ước của Liên Hiệp Quốc liệt kê việc bán hai phi cơ SU 27 cho Việt Nam. Báo cáo của Nga năm 1997 cho biết Việt Nam đã đặt mua tổng cộng 24 phi cơ SU 27 trị giá $500 triệu Mĩ Kim. Viện Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Tế, Cán Cân Quân Sự năm 2004/05 liệt kê tổng cộng 12 chiếc SU 27 (kiểu mẫu 7 SK và 5 UBK) trong bản liệt kê của Việt Nam.
(17) Đặc biệt là tên lửa Mosquito chống hải thuyền
(18) Theo tin tức báo chí, Việt Nam tiếp nhận 50 súng phóng tên lửa cầm tay SAM SA 18 năm 2002 với hợp đồng trị giá $643 triệu Mĩ Kim.
(19) Có những nguồn tin khác cho biết việc mua bán 12 chiếc phóng thuyền 1241RA FAC
(20) Subhash Kapila, ‘India Vietnam Strategic Partnership: The Convergence of Interests’ (Hợp Tác Chiến Lược Ấn Độ và Việt Nam) South Asia Analysis Group, Paper No. 177.
(21) Trong thời gian ông Anthony viếng thăm, 49 sĩ quan của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam tham dự những khoa huấn luyên quân sự và hải quân ở Ấn Độ và thêm 64 sĩ quan tham dự khoá huấn luyện Anh ngữ.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment