Friday, October 17, 2008

Mỹ: Vì Thuyền Nhân Chết Giữa Biển Quá Nhiều,Nên Phải Lập Chương Trình H.O.,

TinParis. Trong những ngày gần đây, nhiều người vì " không hiểu rõ lý do và các sự kiện lịch sử " về chương trình HO nên có những nhận định không được " khách quan " . Chúng tôi xin đăng bài dưới đây để quý " đọc giả " hiểu rõ vấn đề hơn và " bớt sự suy tôn cá nhân " không đúng người , và không đúng chỗ để tránh tình trạng lợi dụng ( hay chôm credit ) như thường xãy ra ở Hải Ngoại .

Mỹ: Vì Thuyền Nhân Chết Giữa Biển Quá Nhiều,Nên Phải Lập Chương Trình H.O.,
Nhưng CSVN Đã Mặc Cả Tàn Bạo ( nguồn=> http://motgoctroi.com/ )



Dưới đây là bài phỏng vấn ông Robert Funsett, người phụ trách chương trình H.O. do Nguyễn Khanh, phóng viên RFA, thực hiện, cho thấy lý do có chương trình H.O. chỉ vì có quá nhiều thuyền nhân chết trên biển.Việt Cộng đã thô bạo mặc cả ra sao cho chương trình này thực hiện? Bài như sau.

Ít năm sau ngày cuộc chiến Việt Nam kết thúc, Hoa Kỳ bắt đầu thảo luận với Việt Nam để đưa những cựu quân nhân Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa và gia đình sang Mỹ định cư, qua chương trình được gọi là H.O, viết tắt từ chữ Humanitarian Operation mà chúng tôi xin được tạm dịch là Chương Trình Nhân Đạo.


Đại diện cho Washington để thảo luận với Hà Nội về vấn đề này là ông Phụ Tá Ngoại Trưởng Robert Funsett, từng làm Người Phát Ngôn cho Bộ Ngoại Giao trong thời gian cuộc chiến Việt Nam đang xảy ra. Ông Funsett nay đã nghỉ hưu và đồng ý dành cho Ban Việt Ngữ chúng tôi cuộc phỏng vấn đặc biệt vào đúng chiều 29 tháng Tư giờ Washington, tức sáng sớm ngày 30 tính theo giờ Việt Nam. Cuộc phỏng vấn do Nguyễn Khanh thực hiện.

Nguyễn Khanh: chắc ông vẫn nhớ chuyện gì xảy ra ở Washington cách đây 30 năm chứ?
Robert Funsett: đúng giờ này, tức là vào chiều ngày 29 tháng Tư năm 1975, Sài Gòn bắt đầu sụp đổ. Từ phòng điều hành, ông Phụ Tá Ngoại Trưởng Phillip Habib và tôi nói chuyện lần cuối cùng với ông Đại Sứ Graham Martin.
Đại Sứ Martin không muốn rời Việt Nam, vì ông ta muốn kéo dài thì giờ để có thể cứu thêm những người khác. Cuối cùng, chúng tôi phải chỉ thị bắt ông đại sứ phải rời nhiệm sở.


Ông đại sứ Martin nói chuyện với tôi và tôi còn nhớ là ông ta bảo sẽ lên sân thượng của Tòa Đại Sứ, dùng trực thăng để ra hạm đội. Không đầy một giờ đồng hồ sau đó, đại sứ Martin gọi điện lại báo đã ra tới hạm đội bình yên.
Đại Sứ Martin là một người anh hùng, người con trai duy nhất của ông ta chết ở chiến trường Việt Nam. Ông Martin tìm đủ cách đã hoãn giờ phải rời Sài Gòn vì ông ta muốn di tản được càng nhiều người Việt càng tốt.


Kể từ cái đêm kinh hoàng 29 tháng Tư 1975 đó ở Washington, chúng tôi không bao giờ quên được Việt Nam. Ở ngay Bộ Ngoại Giao, chúng tôi có đặt một tấm bảng tưởng niệm những nhân viên ngoại giao đã hy sinh ở chiến trường Việt Nam.
Tấm bảng này ghi tên biết bao nhiêu nhân viên ngoại giao Hoa Kỳ đã chết vì lý tưởng đem lại tự do và dân chủ cho nhân dân miền NamViệt Nam.


Riêng cá nhân tôi, tôi không thể nào nghĩ rằng 7 năm sau ngày khó quên đó, tôi lại được trao trách nhiệm đàm phán với giới lãnh đạo Hà Nội để yêu cầu thả tù chính trị và cho họ cùng với gia đình sang Hoa Kỳ định cư, cũng như cho những người thuộc diện con lai và thân nhân của những người Việt đang sinh sống tại Mỹ được rời Việt Nam theo chương trình Ra Đi Có Trật Tự.


Nguyễn Khanh: tại sao chương trình Ra Đi Có Trật Tự được thành hình?
Robert Funsett: vì lúc đó có biết bao nhiêu người chết trên biển cả, nên chúng tôi muốn phía Việt Nam đồng ý cho những người Việt muốn sang Mỹ được nộp đơn xin định cư và đến Mỹ an toàn hơn.


Nguyễn Khanh: về chương trình H.O, tức là chương trình đưa tù cải tạo mà trong cuộc điều đình với Hà Nội, Washington gọi là tù nhân chính trị và thân nhân của sang Mỹ, chúng tôi muốn biết ai là người đưa ra sáng kiến này?
Robert Funsett: khi tôi được cử về làm việc cho Văn Phòng Đặc Trách Tỵ Nạn của Bộ Ngoại Giao, kế hoạch cứu tù chính trị được đặt trong khuôn khổ của Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự và nằm dưới sự hỗ trợ của Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc.


Chúng tôi bắt đầu tham khảo với đại diện của phía Việt Nam ở Geneva, và ngay trong buổi gặp gỡ đầu tiên với họ, tôi được thông báo là trong số những người Hoa Kỳ muốn đón sang Mỹ định cư, thành phần tù nhân chính trị là diện khó nhất. Năm 1982, tôi gặp ông Trợ Lý Bộ Trưởng Hà Văn Lâu và đưa đề nghị cho thân nhân của những người đang cư ngụ ở Mỹ và thành phần tù chính trị được nộp đơn định cư, tức là những cựu quân nhân quân đội Việt Nam Cộng Hòa bị tù cải tạo vì họ có liên hệ với Hoa Kỳ, và những nhà văn, nhà báo, các tu sĩ.


Chúng tôi tiếp tục thảo luận, tiếp tục áp lực Việt Nam qua những phiên họp cấp thấp nhưng kết quả chẳng được là bao. Một năm sau đó tôi gặp lại ông Hà Văn Lâu, tiếp tục yêu cầu và thúc đẩy để đạt kết quả.


Đến mùa hè năm 1984, tôi đánh giá thấy những cuộc vận động ngoại giao như vậy không đem lại kết quả, nên tôi đề nghị ông Ngoại Trưởng George Schultz trình thẳng với Tổng Thống Reagan là khi thông báo cho Quốc Hội Liên Bang biết về con số người nước ngoài được nhập cảnh vào Mỹ hàng năm, ông Ngoại Trưởng sẽ thay mặt Tổng Thống đưa ra một chương trình mới là nhận 10,000 tù nhân chính trị từ Việt Nam và 5,000 người ở diện con lai.


Sau đó tôi đi Geneva đưa vấn đề này ra nói với đại diện của Việt Nam là ông Trợ Lý Bộ Trưởng Ngoại Giao Lê Mai nhưng cũng không nhận được đáp ứng tích cực, và con số tù nhân chính trị mà chúng tôi hứa nhận định cư cứ mỗi năm mỗi tăng.


Cuối cùng vào năm 1988, tôi đi Hà Nội gặp ông Trợ Lý Bộ Trưởng Trần Quang Cơ và chúng tôi đạt được thỏa thuận đầu tiên. Đùng một cái chuyện Hà Nội chiếm đóng ở Kampuchea được đưa ra mổ xẻ, Hà Nội bèn loan báo đình chỉ tất cả mọi hợp tác với Hoa Kỳ như hợp tác POW/MIA, hợp tác thảo luận và thực hiện chương trình cho tù chính trị sang Mỹ định cư.


Lúc đó làn sóng người vượt biển tiếp tục xảy ra, những chiếc tầu tiếp tục đến các nước trong vùng, nhiều người chết trên biển cả, bao nhiêu người khác lọt vào tay hải tặc.


Chúng tôi vẫn tiếp tục thúc đẩy, nói với Hà Nội rằng họ không thể nào có quan hệ tốt với các nước láng giềng và với Hoa Kỳ nếu không đồng loạt giải quyết 3 vấn đề then chốt là Kampuchea, POW/MIA và cho tù nhân chính trị sang Mỹ định cư.


Cuối cùng, tại Hội Nghị Quốc Tế Lần Thứ Nhì Về Tỵ Nạn Đông Dương được tổ chức ở Geneva hồi 1989, tôi gặp ông Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch là người cầm đầu phái đoàn Việt Nam để trình bầy chính sách của Hoa Kỳ, và phía Việt Nam đồng ý mời tôi trở lại Hà Nội vào tháng Bảy năm đó và hai bên đều hiểu là sẽ đi đến kết quả rõ rệt.


Nguyễn Khanh: cuộc đàm phán kéo dài bao nhiêu năm mới hoàn tất, theo ông thì tại sao lại kéo dài như vậy không?
Robert Funsett: tôi không biết rõ chuyện gì xảy ra trong nội bộ của họ ở Hà Nội, nhưng có lẽ vấn đề tù nhân chính trị, tù cải tạo là một vấn đề gây rất nhiều tranh cãi, tôi tin rằng ngay trong nội bộ đảng Cộng Sản Việt Nam, nhất là trong quân đội của họ không muốn thấy chuyện thả tù và cho đi Mỹ định cư xảy ra.


Nhưng cũng có những người thực tế hơn, lượng định rằng nếu Việt Nam muốn cải tiến quan hệ với các nước Đông Nam Á và với Hoa Kỳ, thì phải làm điều này, phải giải quyết những vấn đề có tính cách nhân đạo.


Nguyễn Khanh: lúc ngồi trên máy bay đi Hà Nội để ký kết văn kiện đưa những tù nhân chính trị từ Việt Nam sang Mỹ, cảm tưởng của ông như thế nào?


Robert Funsett: nếu tính từ năm 1982 cho đến năm 1989, tôi thu thập được rất nhiều kinh nghiệm đàm phán với Hà Nội, vì ít nhất là tôi và họ nói chuyện với nhau 25 lần, phần lớn là ở Geneve, có 2 lần ở New York. Vì thế trên đường đi Hà Nội, tôi vừa hy vọng nhưng cũng không lạc quan quá mức.


Tôi còn nhớ rõ là hôm 29 tháng Bảy, sau 2 ngày thảo luận rốt ráo vẫn chưa đi đến kết quả nào cụ thể cả. Cuối cùng tôi đề nghị với người cầm đầu đoàn đàm phán Việt Nam là ông Vũ Khoan là tôi với ông ta gặp riêng nhau, để thảo luận từng điểm một. Chúng tôi cùng nhau giải quyết từng điểm một và cuối cùng văn kiện ngoại giao đó thành hình, tôi và ông ta cùng ký tắt ở Hà Nội
.



Nguyễn Khanh: ông nghĩ gì lúc đặt bút ký kết?
Robert Funsett: dĩ nhiên tôi rất vui mừng, nhưng đồng thời cũng tiếc là phải mất quá nhiều thời gian mới giải quyết được chuyện này. Phải cho giải quyết được nhanh hơn thì có thể giảm bớt những ngày khổ đau cho những người tù chính trị ở Việt Nam. Ngày ký kết cũng là ngày mà tôi hãnh diện nhất trong 40 năm làm ngoại giao.


Đến nay, đã có 300,000 người Việt, gồm cả những cựu tù nhân chính trị và gia đình đến Mỹ định cư qua chương trình H.O.


Nguyễn Khanh: họ có liên hệ với ông không?
Robert Funsett: nhiều lắm. Trong những năm qua, tôi cảm động, nghẹn ngào vì cảm tình họ dành cho tôi. Tôi nói với mọi người là công này không phải chỉ mình tôi, mà còn liên quan đến rất nhiều người khác nữa, từ những người tham dự đàm phán cho tới những người thực hiện chương trình giúp định cư.


Tôi nghĩ phần nào chương trình này đã bù lại cho những mất mát xảy đến sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, khi Sài Gòn thất thủ, bao nhiêu người phải đi tù. Chúng tôi vẫn kiên trì, không bỏ rơi họ và cuối cùng đạt được thành công.


Nguyễn Khanh: xin cám ơn ông.

No comments: